Thứ Bảy, 31 tháng 7, 2010

HOI CHUNG TU KY



HỘI CHỨNG TỰ KỶ

- Thời kỳ trước khi công nhận hội chứng tự kỷ
Hội chứng tự kỷ được phát hiện và mô tả vào những năm 40 của thế kỷ trước, nhưng thực ra hội chứng tự kỷ đã có từ rất lâu trong lịch sử loài người. Các tác phẩm văn học phương Tây cổ đại đã nhắc tới những trẻ kỳ lạ, những đứa trẻ “con trời” hay bị “tiên đánh tráo”. Nhiều mô tả về trẻ mà cho tới sau này khi Leo Kanner (1894 - 1981) phát hiện, người ta mới thấy đó chính là những đứa trẻ tự kỷ trong lịch sử. Theo Candland (1993): “Trẻ em với những gì mà hiện nay chúng ta mô tả như chứng tự kỷ có thể đã mô tả trước đây và được gọi là những đứa trẻ hoang dã và Kanner là người đầu tiên mô tả chi tiết về những gì mà ngày nay biểu hiện bằng thuật ngữ rối loạn tự kỷ ở trẻ em”.

Cũng bàn về sự tồn tại của HCTK trong lịch sử, các nhà nghiên cứu Australia cho biết, chứng tự kỷ đã tồn tại từ lâu trước khi được chính thức công nhận vào năm 1943. Các câu chuyện cổ tích và dân gian có từ hàng trăm năm trước đã có những bằng chứng về bệnh tự kỷ ở trẻ em. Theo Tiến sỹ Julie Leask và các cộng sự (Trung tâm miễn dịch và giám sát vắc xin phòng bệnh ở Sydney - Australia): Các câu chuyện của Anh, Đức và Scandinavia đã ủng hộ giả thuyết rằng chứng tự kỷ không phải là kết quả của môi trường hay sản phẩm hiện đại như vắc xin sởi, quai bị … Phản đối lại giả thuyết cho rằng nguyên nhân của HCTK là do tiêm chủng vắc xin sởi, quai bị…, tác giả Julie Leask đưa ra dẫn chứng là trẻ tự kỷ đã tồn tại trước đây trong lịch sử, vào thời điểm mà trẻ em chưa được tiêm chủng.

Tiếp tục dựa vào những bằng chứng trên cơ sở các câu chuyện trong tác phẩm văn học cổ đại, Lorna Wing (1978) đã tìm ra những dấu hiệu của bệnh tự kỷ. Câu chuyện được bà lưu ý nhất và mô tả trong cuốn sách “Hiện tượng tự kỷ” nói về một nhân vật là “Sư huynh Juniper”. Theo nhận định của bà, người này có những biểu hiện tự kỷ như: không muốn giao tiếp, tiếp xúc; thờ ơ với mọi người xung quanh (không để ý đến những người dân đang đón chào); thích những họat động nhàm chán lặp đi lặp lại (chỉ chú ý đến trò chơi bập bênh); không hiểu và đáp lại những tình cảm ngưỡng mộ của người dân thành La Mã). Đó là những dấu hiệu ngày nay chúng ta thấy ở hội chứng tự kỷ. Tuy chưa khẳng định một cách chắc chắn “Sư huynh Juniper” có bị tự kỷ hay không nhưng theo mô tả lại của Lorna Wing đã cho thấy một số biểu hiện mà ngày nay chúng ta thường gặp ở HCTK.

Tiếp theo là tiếp cận mang tính y học về dấu hiệu của HCTK, những năm 70 của thế kỷ 18, cuộc cách mạng trong ngành tâm thần học thực sự nổ ra, người ta bắt đầu quan tâm nhiều đến bệnh tâm trí, tinh thần. Y khoa bắt đầu đi tìm căn nguyên của căn bệnh tâm thần. Theo những tài liệu mô tả lâm sàng, vào thời điểm đó, bác sỹ Jean Marc ITard (1774-1838) đã tiếp nhận một cậu bé “hoang dã” tên là Victor. Theo mô tả, cậu bé không có khả năng hiểu và biểu đạt ngôn ngữ, không có khả năng giao tiếp hoặc nhận thức, các ứng xử xa lạ với cuộc sống của xã hội loài người. Nói chung, Victor bị mất khả năng giao tiếp về mặt xã hội và không có khả năng nhận thức như trẻ bình thường. Để khắc phục tình trạng này, ITard đã tìm đến phương pháp giáo dục. Ông tập trung vào các hoạt động như: tạo hứng thú cho Victor giao tiếp xã hội, đánh thức sự nhạy cảm về thần kinh, tăng cường mở rộng nhận thức cho Victor, hướng dẫn Victor sử dụng ngôn ngữ, yêu cầu thực hiện thao tác trí tuệ đơn giản. ITard là người đầu tiên tiến hành giáo dục trị liệu đối với trẻ có khiếm khuyết tinh thần, ông là người sáng tạo ra học thuyết về tri giác. Khác với những mô tả được sưu tầm từ các tác phẩm văn học cổ đại, những mô tả theo xu hướng lâm sang - y học của bác sỹ Jean Marc ITard cho thấy những đặc điểm rõ ràng hơn về HCTK. Mô tả này vẫn nhằm khẳng định sự tồn tại của những đứa trẻ tự kỷ trong lịch sử.

Để minh chứng cho triệu chứng tự kỷ của Victor, sau này Uta Frith (1989) đã xác nhận những dấu hiệu của tự kỷ như sau: sút kém trầm trọng về tương tác xã hội, thích chơi một mình, có hành vi rập khuôn, không có ngôn ngữ, sự tập trung chú ý bất thường về thị giác.

Qua những mô tả trên chúng ta thấy rằng, HCTK đã tồn tại rất lâu trong lịch sử, hội chứng này chỉ được mô tả chi tiết và có tên gọi chính thức vào năm 1943 bởi bác sỹ tâm thần người Mỹ là Leo Kanner.

- Thời kỳ phát hiện ra bệnh tự kỷ

Sang thế kỷ 20 với sự phát triển mạnh mẽ của sinh học, vật lý học, hóa học và y học với bề dày 200 năm nghiên cứu các bệnh về tinh thần, nên đã có những bước phát triển mới trong việc mô tả, định bệnh và chữa trị. Sự chi tiết hóa và phân loại bệnh ngày càng được quan tâm đúng mức.
Thuật ngữ tự kỷ (Autism) được bác sỹ tâm thần người Thụy Sỹ là Engen Bleuler (1857-1940) đưa ra năm 1919 (Wing 1976). Ông sử dụng thuật ngữ này để mô tả giai đoạn bắt đầu rối loạn thần kinh ở người lớn. Chú ý đặc biệt đến mất nhận thức thực tế của người bệnh khi chuyển sang cách ly với đời sống thực tại hàng ngày và nhận thức của người bệnh có xu hướng không thống nhất với kinh nghiệm thông thường bởi những rối loạn tâm thần (Wing 1976). Như vậy Bleuler là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ tự kỷ để mô tả một triệu chứng trong bệnh tâm thần phân liệt
HCTK thực sự được công nhận vào năm 1943, trong một bài báo với nhan đề “Autism Disturbance of Effective Contract”, HCTK được mô tả một cách rõ ràng và khoa học bởi bác sỹ tâm thần người Mỹ là Leo Kanner. Ông đã hiểu HCTK theo một sắc thái khác (không giống Bleuler). Mô tả của ông như sau: trẻ tự kỷ thiếu quan hệ tiếp xúc về mặt tình cảm với người khác; cách chọn lựa các thói quen hàng ngày rất giống nhau về tính tỉ mỉ và tính kỳ dị; không có ngôn ngữ hoặc ngôn ngữ thể hiện sự bất thường rõ rệt; rất thích xoay tròn các đồ vật và thao tác rất khéo; có khả năng cao trong quan sát không gian và trí nhớ “như con vẹt”; khó khăn trong học tập ở những lĩnh vực khác nhau; vẻ bề ngoài những trẻ này xinh đẹp, nhanh nhẹn, thông minh; thích độc thoại trong thế giới tự kỷ; thất bại trong việc hiểu hành vi giả vờ và hành vi đoán trước; chỉ hiểu nghĩa đen của câu nói; thích tiếng động và vận động lặp đi lặp lại đơn điệu; giới hạn đa dạng các hoạt động tự phát (Lorna Wing 1998 và Jack Cott 1999). Kanner nhấn mạnh triệu chứng tự kỷ có thể phát hiện được ngay khi trẻ ra đời hoặc trong khoảng 30 tháng đầu. Từ những phát hiện này của Kanner, KH y học đã đánh dấu một bước tiến mới trong việc chẩn đoán một dạng bệnh tâm trí. Từ mô tả này, sau này khái niệm tự kỷ được mở rộng thành khái niệm Rối loạn tự kỷ rồi đến Phổ tự kỷ. Công trình nghiên cứu của Kanner ban đầu ít được chú ý, sau đó được phổ biến nhanh chóng và ngày nay là trọng tâm của nhiều công trình nghiên cứu tại nhiều nước trên thế giới (Wing 1989).
Trong việc sử dụng khái niệm tự kỷ (autism) đã xảy ra một vấn đề nhầm lẫn trong y khoa. Thuật ngữ tự kỷ được Engen Bleuler đưa ra nhằm mô tả triệu chứng của những bệnh nhân bị tâm thần phân liệt vào năm 1919 và sau đó Kanner lại sử dụng chính thuật ngữ này để mô tả HCTK, và đồng thời Theo Bender(1946) do tính trầm trọng của hội chứng tự kỷ nên đã khiến một số bác sỹ trong những năm 1950 suy đoán hội chứng tự kỷ ở trẻ em được hình thành từ những rối loạn thần kinh ở giai đoạn đầu của trẻ sơ sinh và bệnh này là giai đoạn đầu của bệnh tâm thần phân liệt. Sự nhầm lẫn vẫn còn tồn tại trong quan điểm của một số bác sỹ cho đến ngày nay khi nhìn nhận về HCTK.
Trong việc sử dụng thuật ngữ tự kỷ, năm 1944, một bác sỹ tâm thần người Áo là Hans Asperger (1906-1980) cũng sử dụng thuật ngữ này (autism) trong khi mô tả những vấn đề xã hội trong nhóm trẻ trai mà ông làm việc. Một cách hiển nhiên là Asperger không biết bài viết của Kanner cũng như việc sử dụng từ Tự kỷ của Kanner. Ngày nay chúng ta gọi bệnh này là hội chứng Asperger. Mô tả của Asperger không được nhìn nhận trong nhiều năm, nhưng gần đây đã được chấp nhận và nhận được nhiều sự quan tâm từ xã hội, y học chính thức đưa vào hai bảng phân loại bệnh manh tính quốc tế là DSM-IV và ICD 10. Mô tả của Asperger như sau: Ngôn ngữ của trẻ phát triển bình thường, tuy nhiên trong cách diễn tả và phát âm nhiều cung điệu lên xuống không thích hợp với hoàn cảnh. Có những rối loạn trong cách sử dụng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất “con, tôi” lẫn lộn với ngôi thứ hai và ba. Vẫn có những tiếp xúc về mặt xã hội nhưng có xu hướng thích cô đơn, đơn độc. Rối loạn đặc biệt nhất trong hội chứng này là cách suy luận rườm rà, phức tạp, không thích ứng với những điều kiện, hòan cảnh xã hội. Những người mang hội chứng có những sở thích đặc biệt về mặt kỹ thuật và toán học, đồng thời họ có khả năng nhớ tốt một cách lạ thường.
Qua nghiên cứu, Asperger thấy các triệu chứng ở trẻ này rất tinh tế và khó phát hiện, cha mẹ thường phát hiện khi con họ được 3 tuổi. Sau này ông cho biết triệu chứng Asperger khác với hiện tượng tự kỷ mà Kanner đã mô tả, tuy nhiên ông cũng đồng ý có nhiều điểm tương đồng. Những đứa trẻ mà Asperger miêu tả có kĩ năng ngôn ngữ phát triển cao hơn và có trí tuệ thông minh nói chung cao hơn. Công việc của Asperger chưa được biết rộng rãi đối với người nói tiếng Anh trên thế giới. (Vì công trình của ông viết bằng tiếng Đức). Năm 1989 Uta Frith đã dịch một bài báo và một bài phê bình phân tích của Asperger sang tiếng Anh. Nghiên cứu của Asperger chỉ thực sự được biết đến rộng rãi khoảng 15 năm đến 20 năm trở lại đây.
Cho đến ngày nay những mô tả của Leo Kanner và Hans Asperger cơ bản không có gì thay đổi. Những mô tả của hai ông vẫn là những điểm chính trong bảng phân loại bệnh quốc tế ngày nay về rối loạn tự kỷ.
Các nhà KH ngày nay cho rằng, trong rối loạn tự kỷ có nhiều dạng tự kỷ khác nhau. Trong đó tự kỷ điển hình và trầm trọng thuộc về mô tả của Kanner hay tự kỷ kiểu Kanner, còn tự kỷ nhẹ hoặc tự kỷ có khả năng trí tuệ cao thuộc về mô tả của Asperger hay tự kỷ kiểu Asperger và được gọi là hội chứng Asperger.
Để đưa ra những định nghĩa cũng như những chẩn đoán chính xác cho HCTK các nhà KH phải mất nhiều thập niên tranh cãi, nghiên cứu. Tuy nhiên, theo Jack Scott, những người bị tự kỷ là một dạng không thể tách biệt với những dạng bất thường về trí tuệ và thường bị xếp vào nhóm của những " thằng ngốc " và những " người điên " trong nhiều thế kỷ.
Vì tính chưa rõ ràng đó nên trong những thập niên nửa cuối của thế kỷ 20, nhiều cuộc tranh cãi đã diễn ra xung quanh việc định nghĩa HCTK, vì ngày càng có nhiều mô tả gần giống mô tả của Kanner và Asperger nhưng lại không điển hình với hai hội chứng này. Trước tình trạng này Lorna Wing và Fudith Gould đã tiến hành một cuộc nghiên cứu nhằm khảo sát tất cả trẻ nhỏ dưới 15 tuổi tại một khu vực ở London có bất kỳ chứng tật nào về thề chất và học tập cũng như có những hành vi khác thường từ nặng tới nhẹ. Sau nghiên cứu hai bà đưa ra kết luận như sau: Thứ nhất, Các hội chứng Kanner và Asperger thuộc về nhóm nhỏ nằm trong một dãy các dạng rối loạn gây ảnh hưởng xấu tới quan hệ tương tác và giao tiếp xã hội; Thứ hai, các rối loạn này có thể có ở các trẻ với bất kỳ mức độ thông minh nào; Thứ ba, các rối nhiễu này gắn với những vấn đề thể chất nào đó hoặc với khuyết tật khác về phát triển. Qua khảo sát này của Lorna Wing cho thấy tự kỷ kiểu Kanner là một dạng trong nhóm nhiều rối loạn tương tự. Như vậy là nằm chung hai rối loạn được xem là điển hình trên còn có những rối loạn khác với những đặc điểm, tính chất và mức độ trí tuệ khác nhau. Từ đây Lorna Wing đưa ra khái niệm Phổ Tự kỷ (Autism spectrum disorder ) để khái quát hiện tượng phức tạp này.
Theo ngược dòng lịch sử, khái niệm rối loạn với những điểm tương đồng, chứng tự kỷ đã được đề xuất trước đây và sau những nghiên cứu y khoa của Kanner. Cách nay một thế kỷ, Heller, một nhà giáo dục của thành Viên, đã mô tả những kiểu hành vi bất thường, theo đó trẻ cho thấy sự phát triển bình thường trong những năm đầu đời sau đó bị thoái lui nghiêm trọng về chức năng. Hiện tại chứng này có tên là Rối loạn tan rã ở trẻ em. Cũng tương tự như vậy, một năm sau bài viết đầu tiên của Kanner, Hans Asperger một thầy thuốc trẻ thành Viên, đã đưa ra khái niệm bệnh nhân cách của chứng tự kỷ hoặc ngày nay nó được hiểu là rối loạn Asperger (Asperger, 1944). Một nhà y khoa khác, An¬dreas Rett, đã mô tả một sự rối loạn phát triển khác thường ở những trẻ gái (Rett, 1966) đã mô tả đặc điểm về một giai đoạn ngắn phát triển bình thường và rồi xuất hiện sự giảm sút về vận động và trí tuệ. Rối loạn Rett cũng được liệt kê chính thức vào rối loạn phát triển lan tỏa. Nói chung khi bàn về lịch sử của HCTK có thể chia ra ra làm ba thời kỳ: Thời kỳ đầu tiên được đại diện cho như những năm trước mô tả lâm sàng của Kanner năm1943. Thứ hai , thời đại của Kanner . Cuối cùng kỷ nguyên hiện đại, mà bắt đầu là Rimland tạo ra một diện mạo mới trong giáo dục và điều trị HCTK.

Về mặt y khoa, những thay đổi quan niệm về hội chứng tự kỷ có thể nhận thấy trong lịch sử của hai hệ thống quốc tế phân loại các dạng rối loạn tâm bệnh và rối loạn hành vi. Thứ nhất là hệ thống quốc tế phân loại thống kê các chứng bệnh và các vấn đề y tế có liên quan (ICD) do tổ chức y tế thế giới (WHO) công bố, thứ hai là sổ tay chẩn đoán và thống kê (DSM) của Hội tâm bệnh học Hoa Kỳ. Lần xuất bản đầu tiên của hệ thống ICD không nói tới hiện tượng tự kỷ, khi tái bản lần thứ tám (1967) cũng chỉ coi hiện tượng tự kỷ ở trẻ em là một dạng tâm thần phân liệt, đến khi tái bản lần thứ chín (1977) đã đặt chứng tự kỷ vào trong mục “loạn tâm trẻ em”. Sự tiến bộ rõ rệt trong quan niệm của hai hệ thống về chứng tự kỷ được đánh dấu bằng lần tái bản thứ mười của ICD và lần tái bản thứ ba, thứ tư của DSM. Hai hệ thống đều cho rằng các tình trạng tự kỷ đều thuộc trong một dãy các rối loạn về phát triển mà không phải “loạn tâm”. Cả hai hệ thống phân loại cùng sử dụng tên gọi là “Rối loạn phát triển lan tỏa” (Lorna Wing, 1998).

Nghiên cứu về HCTK, lần xuất bản thứ nhất(1953) và thứ 2 (1968) cuốn Sổ Tay Thống Kê Và Chẩn Đoán Các Rối Loạn Tâm Thần của Hiệp Hội Những Nhà Tâm Thần Mỹ chỉ đưa ra những khái niệm tâm thần nhi khi nói về giá trị chính thức trong mô tả trẻ tự kỷ. Sau đó năm 1980 với Hệ thống DSM III là một sự cải tiến quan trọng. Nó mở rộng việc nhận biết một cách chính thức chứng tự kỷ, loại bỏ những giả thuyết trước đây về mối quan hệ giữa tự kỷ và tâm thần phân liệt, và cung cấp một định nghĩa hữu ích về cách tiếp cận mở. HCTK được xếp cùng nhiều rối loạn khác nhau trong cùng nhóm rối loạn thời thơ ấu. Rối Loạn Phát Triển Lan Tỏa (PDD) bao gồm tính tự kỷ nhũ nhi, Rối loạn phát triển lan tỏa sớm ở trẻ em (COPDD). Rối loạn phát triển lan tỏa không đặc hiệu (atypical PDD), Rối loạn phát triển lan tỏa di chứng (residual COPDD). Khác với những lần xuất bản trước, tái bản lần này, DSM-III đã phân biệt rõ ràng sự khác nhau giữa HCTK và bệnh tâm thần phân liệt, đồng thời làm rõ hơn khái niệm Rối loạn phát triển lan tỏa và những hội chứng trong rối loạn phát triển lan tỏa (trong đó có HCTK).
HCTK ngày càng được khái quát hoàn thiện hơn. DSM-III-R đã có những miêu tả cải tiến hơn so với DSM-III (Volkmar, Cicchetti, Cohen, & Bregman, 1992), ở đây khái niệm “Tự kỷ Di chứng” đã không còn phù hợp, đồng thời phân nhóm Rối loạn phát triển lan tỏa sớm ở trẻ em (COPDD) cũng được loại bỏ. Do đó DSM-III-R chủ trương phân Rối Loạn Phát Triển Lan Tỏa (PDD) thành hai nhóm là: Rối loạn tự kỷ và Rối Loạn Phát Triển Lan Tỏa Không Đặc Hiệu (PDD NOS).
Đến năm 1994, DSM IV tiếp tục thuật ngữ chẩn đoán với Rối Loạn Phát Triển Lan Tỏa (PDD) và PDD gồm năm thể loại rối loạn phát triển khác nhau: Rối loạn tự kỷ (Autistic disorder), Rối loạn Rett (Rett’s disorder), Rối loạn tan rã thời ấu thơ (Childhood disintegrative disorder), Rối loạn Asperger (Asperger’s disorder), Rối loạn phát triển lan tỏa không đặc hiệu (Pervasive developmental disorder not otherwise specified). Cho đến nay DSM-IV-TR là bảng phân loại bệnh mới nhất và hoàn thiện nhất của Hiệp Hội Những Nhà Tâm Thần Mỹ.
Cũng nghiên cứu về tự kỷ, một hệ thống phân loại khác ( độc lập với Hiệp hội những nhà Tâm thần mỹ) thuộc Tổ chức Y tế Thế giới. Năm 1978, ICD-9 chính thức thừa nhận tự kỷ ở trẻ em nằm trong phân loại bệnh tâm thần nhi, trong đó bao gồm các bệnh tâm thần đặc hiệu và bệnh tâm thần không đặc hiệu. Chiếu theo cách tiếp cận lịch sử bệnh ICD, tự kỷ được mô tả đầu tiên thuộc về tâm thần nhi. Năm 1992, ICD -10 hoàn thiện hơn trong phân loại HCTK, các tiêu chuẩn chẩn đoán rõ ràng và chi tiết hơn: Trong Rối Loạn Phát Triển Lan Tỏa (PDD) gồm những hội chứng sau: Tính tự kỷ ở trẻ em (F84.0), Tự kỷ không điển hình (F84.1), Hội chứng Rett (F84.2), Rối loạn lan tỏa tan rã khác ở trẻ em (F84.3), Rối loạn tăng hoạt động kết hợp với chậm phát triển tâm thần và các động tác định hình (F84.4), Hội chứng Asperger (F84.5), Rối loạn phát triển lan tỏa khác (F84.8), Rối loạn phát triển lan tỏa không đặc hiệu (F84.9).
Trong suốt quá trình phát hiện và nghiên cứu trẻ tự kỷ, ngày nay các nhà KH đã đưa ra các tiêu chuẩn chẩn đoán được khái quát trong hai bảng phân loại bênh quốc tế là DSM IV và ICD 10. Đây là hai bảng phân loại bệnh tật có uy tín nhất vào thời điểm hiện nay trên thế giới.


TS. Ngô Xuân Điệp

Thứ Hai, 26 tháng 7, 2010

NHAN THUC CUA TRE TU KY





NHẬN THỨC CỦA TRẺ TỰ KỶ

I. Đặt vấn đề
Thông qua nghiên cứu những ghi chép lịch sử cũng như sưu tầm từ tác phẩm văn học cổ đại, các nhà khoa học ngày nay cho rằng: bệnh tự kỷ đã có từ lâu trong lịch sử. Các câu chuyện dân gian cho rằng những cá nhân bị chứng này là do ma làm, quỷ ám…và bị tẩy chay khỏi cộng đồng. Y học xếp bệnh này chung với chậm phát triển trí tuệ hay bệnh tâm thần phân liệt. Sau này, bệnh tự kỷ chính thức được bác sĩ tâm thần nhi Leo Kanner nhận xét và mô tả vào năm 1943 tại Mỹ.Các nghiên cứu gần đây cho thấy, tỷ lệ trẻ mắc hội chứng tự kỷ khá cao trong dân số, bình quân vào khoảng từ 58 đến 60 trẻ tự kỷ trên 10.000 trẻ được sinh ra, và có khuynh hướng ngày càng gia tăng. Theo thông báo của Thượng viện Hoa Kỳ tháng 12 năm 2006[1],cứ bình quân khoảng 166 trẻ được sinh ra sẽ có 1 trẻ bị hội chứng tự kỷ. Con số thống kê của bộ giáo dục Hoa Kỳ cho thấy bình quân 68 gia đình Hoa Kỳ sẽ có một gia đình có người bị tự kỷ. Báo cáo từ Bộ Y tế Trung Quốc 2006, cả nước hiện có hơn 1,6 triệu trẻ tự kỷ và tỷ lệ còn có thể cao hơn nữa vì nhiều trẻ chưa được chẩn đoán kịp thời. Khái niệm “dịch tự kỷ” đã xuất hiện ở quốc gia đông dân nhất thế giới này. Như vậy hội chứng tự kỷ là bệnh chiếm tỷ lệ khá cao trong dân số.Ở VN chưa có con số nghiên cứu toàn diện về trẻ có hội chứng tự kỷ trên cả nước. Theo con số thống kê năm 2007 tại Đơn vị Tâm lý, Bệnh viện Nhi Đồng 1, TP. Hồ Chí Minh có 170 trẻ và Khoa Tâm lý Bệnh viện Nhi Đồng 2, TP. Hồ Chí Minh là 212 trẻ có hội chứng tự kỷ đến khám và điều trị.
Trong khuôn khổ bài báo này, chúng tôi không có điều kiện giới thiệu kỹ về bệnh tự kỷ ở trẻ em và vấn đề nhận thức nói chung. Mục tiêu chính của bài báo này là trình bày một phần kết quả nghiên cứu của chính tôi về nhận thức của trẻ tự kỷ ở TP. Hồ Chí Minh thông qua sử dụng một số công cụ.
Test Denver II: Test sàng lọc sự phát triển Denver (The Denver Developmental Screening Test), được hiểu một cách đơn giản là thang Denver, là một trắc nghiệm dùng để tầm soát những vấn đề về nhận thức và hành vi của trẻ em trước tuổi học. Test Denver được xây dựng bởi
William K. Frankenburg, J.B. Dobbs và các cộng sự tại trung tâm y khoa trường đại học Denver², Colorado, Hoa Kỳ năm 1967. Test Denver có tác dụng “tầm soát” hay còn gọi là “sàng lọc” những tình trạng chậm phát triển trí tuệ và vận động của trẻ em từ sơ sinh cho đến 6 tuổi. Bài báo này sử dụng Denver với mục đích xác định mức độ phát triển trí tuệ của trẻ tự kỷ như: chậm phát triển, nghi ngờ chậm phát triển, phát triển bình thường và phát triển tiến bộ.
Thang đánh giá mức độ tự kỷ ở trẻ em CARS: CARS (Childhood Autism Rating Scale) được thiết kế bởi ba nhà tâm lý học Mỹ là Eric Schopler, Robert J.Reichler và Barbara Rochen Renner, nhằm nghiên cứu thực trạng hành vi của trẻ tự kỷ. Thang đánh giá gồm 60 tiêu chí với 15 lĩnh vực cần chẩn đoán khác nhau ở trẻ. Trong đề tài này, chúng tôi sử dụng thang CARS với mục đích phân loại ba mức độ tự kỷ khác nhau là tự kỷ nhẹ, tự kỷ nặng và tự kỷ rất nặng.Thang đo nhận thức: Chúng tôi đã tiến hành thiết kế hai thang đo nhận thức, nhằm đánh giá khả năng nhận thức sự vật và hiện tượng liên quan đến cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của trẻ tự kỷ. Thang đo thức sự vật, bao gồm những lĩnh vực khác nhau như: Phương tiện giao thông, các loại quả (trái), đồ điện sinh hoạt, gia xúc và gia cầm, các loại đường, các loại hình học, nghề nghiệp, môn thể thao. các loại hoa, mối quan hệ xã hội, con thú, các loại cây, đồ dùng cá nhân, bộ phận cơ thể, kích thước đồ vật, vị trí của đồ vật,… Thang đo nhận thức hiện tượng được thiết kế thành các lĩnh vực, như: trò chơi sắm vai, khả năng kể chuyện, khả năng xử lý tình huống thông thường. kể tên khái quát các chủng loại sự vật, khả năng học toán, biết các chức năng của đồ vật, biết giả vờ, biết chức năng của bộ phận cơ thể, chức năng của nghề, hiểu và biểu lộ cảm nhận giác quan, nghe lệnh và làm theo mệnh lệnh, nghe hiểu và trả lời thông tin liên quan đến cá nhân, bắt chước hành động, bắt chước âm thanh, khả năng yêu cầu, khả năng tham gia nhóm, …


II. Giới thiệu một số biểu hiện tâm lý của trẻ tự kỷ

Năm 1943, Kanner đã mô tả một nhóm trẻ có những tính cách cô lập và xa cách, ông đặt tên cho những đặc điểm đó là hội chứng tự kỷ( Autism) . Mô tả của ông như sau: trẻ tự kỷ thiếu quan hệ tiếp xúc về mặt tình cảm với người khác; cách chọn lựa các thói quen hàng ngày rất giống nhau về tính tỉ mỉ và tính kỳ dị; không có ngôn ngữ hoặc ngôn ngữ thể hiện sự bất thường rõ rệt; rất thích xoay tròn các đồ vật và thao tác rất khéo; có khả năng cao trong quan sát không gian và trí nhớ “như con vẹt”; khó khăn trong học tập ở những lĩnh vực khác nhau; vẻ bề ngoài những trẻ này xinh đẹp, nhanh nhẹn, thông minh; thích độc thoại trong thế giới tự kỷ; thất bại trong việc hiểu hành vi giả vờ và hành vi đoán trước; chỉ hiểu nghĩa đen của câu nói; thích tiếng động và vận động lặp đi lặp lại đơn điệu; giới hạn đa dạng các hoạt động tự phát (Lorna Wing 1998 và Jack Cott 1999). Kanner nhấn mạnh triệu chứng tự kỷ có thể phát hiện được ngay khi trẻ ra đời hoặc trong khoảng 30 tháng đầu. Từ những phát hiện này của Kanner, khoa học y học đã đánh dấu một bước tiến mới trong việc chẩn đoán một dạng bệnh tâm trí. Sau này khái niệm tự kỷ được mở rộng thành khái niệm Rối loạn tự kỷ rồi đến Phổ tự kỷ. Công trình nghiên cứu của Kanner ban đầu ít được chú ý, sau đó được phổ biến nhanh chóng và ngày nay là trọng tâm của nhiều công trình nghiên cứu tại nhiều nước trên thế giới (Wing 1989).
Do trẻ tự kỷ có những mức độ nhận thức khác nhau nên ngay từ khi phát hiện ra bệnh, Leo Kanner đã có sự hiểu sai về mối quan hệ giữa tự kỷ và giảm sút trí tuệ. Sau khi quan sát một trẻ trai có bề ngoài khôi ngô tuấn tú hoàn thành tốt một số phần trong trắc nghiệm IQ, Kanner và một số nhà tâm lý học sau ông cho rằng những trẻ tự kỷ không bị chậm phát triển trí tuệ. Ông kết luận cá nhân bị tự kỷ được gọi là “trì trệ trong chức năng”.
Sau nhiều thập niên nghiên cứu, ngày nay các nhà khoa học thấy rằng khi áp dụng thích hợp các trắc nghiệm phát triển đã cho thấy tính toàn vẹn của nó, các thang đo được xem là hoàn chỉnh khi đo đạc chỉ số thông minh và chỉ số phát triển( chỉ số IQ và DQ) thì vấn đề chậm phát triển tâm thần được coi là yếu tố chính của những cá nhân bị tự kỷ (Rutter, Bai­ley, Bolton, & Le Couter, 1994) và kéo dài suốt cuộc đời (Lockyer & Rutter, 1969, 1970). Khi tiến hành các nghiên cứu cụ thể trên các trắc nghiệm đã được kiểm chứng, Sandra(2000) cho là hầu hết trẻ bị tự kỷ có khả năng phát triển trí tuệ dưới mức bình thường, cụ thể có khoảng 70% trẻ tự kỷ bị chậm phát triển trí tuệ và 30% còn lại là trung bình và trên trung bình. Những trẻ có khả năng nhận thức bình thường có thể làm chủ nhiều bài tập ở chương trình học phổ thông, nhưng vẫn còn những triệu chứng của bệnh tự kỷ như khó khăn giao tiếp, không quan tâm đến những người xung quanh, hạn chế trong hiểu và biểu hiện xúc cảm, tình cảm, … Như vậy: trẻ tự kỷ có đời sống trí tuệ rất khác nhau. Mỗi một trẻ tự kỷ khác nhau sẽ phát triển khả năng trí tuệ khác nhau, trong đó phần lớn trẻ tự kỷ bị chậm phát triển trí tuệ. Có thể nói, hội chứng tự kỷ là một hội chứng đa khuyết tật, biểu hiện sự rối loạn phát triển trong hành vi, nhận thức, ngôn ngữ và quan hệ xã hội. Trẻ tự kỷ muốn đóng kín thế giới riêng của mình, không quan tâm đến thế giới xung quanh, không muốn giao tiếp liên lạc với người khác. Do đó trẻ tự kỷ rất hạn chế trong việc hiểu biết môi trường xung quanh, các chuẩn mực xã hội nói chung và những quy tắc, kĩ năng ứng xử qua lại giữa con người.
Như vậy, hội chứng tự kỷ đưa đến khiếm khuyết về tinh thần, gây ra những biểu hiện bất thường về xúc cảm-tình cảm; hành vi, ứng xử xã hội sai lệch; ngôn ngữ và nhận thức không phù hợp với thực tế. Khác với trẻ chậm phát triển trí tuệ, trẻ tự kỷ có những mức độ nhận thức hết sức khác nhau từ chậm phát triển nặng, trung bình đến nhẹ, thậm chí có cả những tài năng, thần đồng về học tập cũng bị tự kỷ.III. Nhận thức của trẻ tự kỷ Để hiểu rõ hơn tình trạng nhận thức của trẻ tự kỷ, chúng tôi đã tiến hành nghiên trên 104 trẻ tự kỷ có độ tuổi từ 36 đến 72 tháng tuổi và 68 trẻ bình thường cùng tuổi làm nghiên cứu đối chứng.



1. Đánh giá mức độ tự kỷ ở trẻ em
Để phân biệt được mức độ tự kỷ khác nhau của trẻ, chúng tôi dựa vào thang Đánh giá Mức độ Tự kỷ ở Trẻ em (CARS). Do thang CARS là thang dùng cho đánh giá mức độ tự kỷ, nên chúng tôi không sử dụng thang này đánh giá trên trẻ bình thường.
Tiến hành nghiên cứu 104 trẻ tự kỷ, chúng tôi đã xếp loại ra ba nhóm trẻ có mức độ tự kỷ khác nhau là: tự kỷ nhẹ chiếm14,4%, tự kỷ nặng 51,9% và tự kỷ rất nặng 33,7% (xem bảng 1).Theo các nhà nghiên cứu về trẻ tự kỷ, thể tự kỷ nặng và được mô tả đầu tiên là tự kỷ điển hình hay thể tự kỷ Kanner; tiếp theo là mô tả của Asperger đối với những trẻ có mức độ tự kỷ nhẹ hơn và được gọi là hội chứng Asperger. Thời gian cuối thế kỷ 20, Lorna Wing đã đưa ra khái niệm phổ tự kỷ, nghĩa là tự kỷ là một hội chứng có một (quang) phổ rất rộng, từ tự kỷ nặng đến tự kỷ nhẹ hoặc từ tự kỷ điển hình đến tự kỷ không điển hình cho đến hội chứng Asperger. Trong bài báo này, chúng tôi chỉ nghiên cứu hai mức độ tự kỷ khác nhau là tự kỷ điển hình (F 84.0) và tự kỷ không điển hình (F 84.1). 2. Khả năng trí tuệ của trẻ tự kỷQua kiểm tra test Denver II. Tiến hành làm trắc nghiệm trên 68 trẻ bình thường cho thấy, 100% trẻ có mức độ phát triển bình thường, không có trẻ nào chậm phát triển và nghi ngờ chậm phát triển. Trong khi đó kết quả kiểm tra trên 104 trẻ tự kỷ cùng nhóm tuổi lại có tới 76.9% trẻ chậm phát triển, 13.5% trẻ nghi ngờ chậm phát triển và 9.6% trẻ phát triển bình thường, không có trẻ nào phát triển tiến bộ. Do vậy số trẻ tự kỷ có biểu hiện chậm phát triển là rất cao.
Như vậy, không phải mọi trẻ tự kỷ đều có khả năng phát triển trí tuệ như nhau, tùy từng trẻ khác nhau sẽ có mức độ trí tuệ khác nhau, trong đó số trẻ tự kỷ chậm phát triển trí tuệ chiếm tỉ lệ cao. Trẻ tự kỷ chậm phát triển là trẻ không làm được phần lớn những mục trong các lĩnh vực của test Denver mà đúng ra trẻ phải hoàn thành theo mức độ quy định của tuổi trắc nghiệm, các trẻ này đều có những khó khăn nghiêm trọng về nhận thức và giao tiếp xã hội, khó có thể theo học trong những lớp học bình thường, vì vậy các trẻ này cần có chương trình can thiệp đặc biệt để giúp trẻ phát triển khả năng nhận thức và ứng xử hành vi. Trong số 9.6% trẻ có khả năng phát triển trí tuệ bình thường có mức độ nhận thức, hiểu biết gần như trẻ bình thường và có thể tham gia vào lớp học phổ thông, tuy nhiên những trẻ này vẫn còn một số khó khăn trong một số môn học, cũng như hòa nhập cộng đồng cùng các bạn trang lứa. Những trẻ bị nghi ngờ chậm phát triển nếu được can thiệp sớm sẽ giúp trẻ phát triển tốt hơn, ngược lại nếu trẻ không được can thiệp hoặc can thiệp không đúng cách sẽ dẫn đến tình trạng chậm phát triển trí tuệ. Do đó, can thiệp sớm là một phương án tối ưu nhất đối với sự phát triển trí tuệ của trẻ.
Khác với trẻ bình thường, khi trong cả bốn lĩnh vực của test Denver là: Vận động thô, ngôn ngữ, vận động tinh tế - thích ứng và cá nhân - xã hội phát triển một cách đồng đều nhau, thì ở trẻ tự kỷ cho thấy sự mất cân đối trong phát triển hết sức rõ rệt. Cụ thể là, hầu hết trẻ bị tự kỷ được đưa đi khám với lý do chậm nói. Những người chăm sóc đều có thắc mắc là, khi so sánh với các trẻ cùng tuổi khác, con họ bị chậm phát triển ngôn ngữ rõ ràng, trẻ thường phát ra những âm thanh vô nghĩa khiến họ không hiểu được. Một số phụ huynh khác cho rằng, trước đây trẻ đã nói một vài từ nhưng sau đó không bao giờ nói đến từ đó nữa hay đôi khi mọi người rất vui khi trẻ nói đúng tình huống một số từ, nhưng chưa bao giờ trẻ lặp lại từ theo yêu cầu. Kết quả kiểm tra test Denver cho thấy, có tới 76.9% trẻ bị chậm phát triển ngôn ngữ và chỉ có 23.1% trẻ có phát triển ngôn ngữ bình thường. Hầu như trẻ tự kỷ đến khám với lý do chậm nói, nhưng qua quá trình thăm khám, chúng tôi thấy trẻ gặp những khiếm khuyết nghiêm trọng liên quan đến quan hệ xã hội. Các phụ huynh cho rằng, con họ thờ ơ với mọi người xung quanh, kể cả cha mẹ, chúng thích chơi một mình hơn chơi với người khác. Khi đến trường, trẻ không thích hòa nhập với bạn bè, không quan tâm đến những gì cô giáo hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trên trẻ về lĩnh vực cá nhân – xã hội cho thấy, có 78.8% trẻ bị chậm phát triển và 21.2% phát triển bình thường. Ngoài hai khiếm khuyết cơ bản trên, trẻ tự kỷ còn khiếm khuyết liên quan đến hành vi, khi trẻ thường có những hành vi định hình, lặp đi lặp lại một cách bất thường, không muốn thay đổi thói quen hàng ngày. Kết quả nghiên cứu trên lĩnh vực vận động tinh tế và thích ứng cho thấy 47.1% trẻ tự kỷ chậm phát triển ở lĩnh vực này. Trong quá trình thăm khám một cá nhân, sau khi đưa ra chẩn đoán tự kỷ, các phụ huynh có chung thắc mắc là họ không hề phát hiện sự phát triển bất thường nào 73 con họ trong hơn một năm đầu sau sinh, vì các mốc về vận động, như lẫy (lật), ngồi, bò, đứng, đi ở trẻ đều phát triển bình thường. Tương ứng với kết quả nghiên cứu 104 trẻ tự kỷ thông qua test Denver cho thấy, trong lĩnh vực vận động thô có 90.4% trẻ phát triển bình thường và chỉ có 9.6% trẻ chậm phát triển.
Qua kết quả test Denver cho thấy, trẻ tự kỷ gặp khó khăn nghiêm trọng trong lĩnh vực ngôn ngữ, cá nhân và xã hôi, vận động tinh tế và thích ứng; trong khi, lĩnh vực vận động thô cho thấy sự phát triển gần như trẻ bình thường.
Quan sát bảng nghiên cứu số 1 thấy rằng, có một tỉ lệ thuận giữa mức độ phát triển trí tuệ với mức đô tự kỷ của trẻ em. Ở mức độ tự kỷ rất nặng, có tới 100% chậm phát triển trí tuệ; nhưng ở mức độ tự kỷ nhẹ, có khoảng 20% trẻ bị chậm phát triển trí tuệ. Đồng thời trong số trẻ phát triển trí tuệ bình thường không có trẻ nào ở mức độ tự kỷ rất nặng, trong khi đó tự kỷ nhẹ chiếm tới 53.3%. Như vậy, mức độ nặng, nhẹ của tính tự kỷ khác nhau có ảnh hưởng đến mức độ nhận thức tốt hay không tốt ở trẻ tự kỷ: tính tự kỷ càng nặng thì khả năng trí tuệ càng thấp và ngược lại tính tự kỷ càng nhẹ thì khả năng trí tuệ càng cao.


2. Nhận thức sự vật của trẻ tự kỷ
Do hầu hết trẻ tự kỷ bị hạn chế trong phát triển trí tuệ, nên khả năng nhận thức của trẻ cũng gặp những khó khăn nhất định. Kết quả nghiên cứu trên 104 trẻ tự kỷ về khả năng nhận biết các sự vật thông qua hình ảnh và đồ vật cho thấy: có 83 trẻ nhận thức kém và rất kém, ngược lại chỉ có số lượng nhỏ là 7 trẻ có nhận thức tốt và rất tốt; như vậy trong nhận thức sự vật, những trẻ tự kỷ khác nhau cũng có mức độ nhận thức khác nhau, trong đó nhận thức kém và rất kém chiếm số lượng cao nhất.
Liên hệ với khả năng nhận thức sự vật, trong quá trình thăm khám trẻ có hội chứng tự kỷ, một số phụ huynh cho rằng, trong khi các trẻ khác rất thích đồ chơi, thì con họ không quan tâm cũng như không muốn đụng chạm tới những đồ chơi thông thường; các đồ vật xung quanh có hấp dẫn đến mấy cũng không thu hút sự chú ý của trẻ. Một điều mà các phụ huynh thắc mắc là con họ rất thích cầm một vật trên tay như: ống hút, sợi dây, cành cây, cộng cỏ, cộng thun, vỏ hộp… trẻ có thể chơi với đồ vật này hàng giờ đồng hồ mà không biết chán, thậm chí chơi hết ngày này đến ngày khác chỉ một đồ vật. Thông thường những vật này không có ý nghĩa nhiều đối với trẻ bình thường. Trong khi những trẻ bình thường chơi với mọi đồ vật khác nhau và luôn khám phá thế giới nhằm thỏa mãn trí tò mò, thì trẻ tự kỷ tốn quá nhiều thời gian vào chơi chỉ với một vài đồ vật. Với thói quen và sở thích nghèo nàn này, trẻ tự kỷ không có nhu cầu khám phá thế giới và dẫn đến hạn chế nghiêm trọng trong nhận thức và hiểu biết đồ vật xung quanh.
Khi so sánh khả năng nhận thức đồ vật giữa trẻ bình thường và trẻ tự kỷ, ở mức độ nhận thức rất tốt, trong khi trẻ bình thường chiếm 73.5% thì trẻ tự kỷ là 1.9%; trái lại, ở mức độ nhận thức rất kém, khi không có trẻ bình thường nào rơi vào thì ở trẻ tự kỷ có tới 46.2%. Như vậy, khả năng nhận thức sự vật của trẻ hạn chế nhiều so với trẻ bình thường cùng tuổi.


3. Nhận thức hiện tượng của trẻ tự kỷ
Do thang đo hiện tượng bao gồm những lĩnh vực liên quan đến tư duy và hành vi ứng xử và đây cũng là những lĩnh vực trẻ tự kỷ gặp khó khăn. Qua bảng kết quả nghiên cứu trên cho thấy, số trẻ tự kỷ nhận thức kém là 58.7% và số trẻ nhận thức rất tốt chỉ là 1.9%. Như vậy, trẻ tự kỷ rất hạn chế trong nhận thức hiện tượng. Liên quan đến lĩnh vực tư duy, các nhà chuyên môn cho rằng trẻ tự kỷ khó khăn trong hiểu những khái niệm trừu tượng, kỹ năng khái quát rất hạn chế, trẻ không biết chơi tưởng tượng, chơi giả vờ, chơi đóng vai như trẻ bình thường; ngay cả khi trẻ tự kỷ lớn và có ngôn ngữ thì trẻ cũng khó hiểu những câu nói mang hàm ý ẩn dụ, câu nói bóng gió, chỉ hiểu nghĩa đen, ý nghĩa trực tiếp của câu nói; trẻ không biết nói đùa, và không phân biệt giữa những lời nói dối và nói thật. Về hành vi ứng xử trẻ cũng gặp những trở ngại nhất định: không quan tâm đến những chuẩn mực xã hội hiện hành; trong mọi nơi, mọi lúc, mọi tình huống trẻ thích hành động theo thói quen hơn là ứng phó hành vi phù hợp với hoàn cảnh; luôn có những hành vi kì cục, bất thường. Với mục đích muốn biết rõ hơn về khả năng nhận thức hiện tượng của trẻ tự kỷ, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đối chứng với trẻ bình thường. Kết quả nghiên cứu cho thấy, ở mức độ nhận thức rất tốt, trẻ bình thường chiếm 83.3% và trẻ tự kỷ chỉ chiếm 1.9%; Ở mức độ nhận thức kém, trong khi không có trẻ bình thường nào rơi vào, thì trẻ tự kỷ lại chiếm tới 58.7%. Với các con số trái ngược trên, chúng ta thấy trẻ tự kỷ gặp khiếm khuyết nghiêm trọng trong nhận thức hiện tượng.

4. Khả năng gọi tên sự vật
Gọi tên sự vật là khả năng trẻ nhận biết và gọi đúng tên danh từ của đồ vật. Như vậy, ngoài khả năng xác định chính xác đồ vật, trẻ còn phải có khả năng ngôn ngữ để gọi đúng tên đồ vật đó. Kết quả nghiên cứu trên 104 trẻ cho thấy, có tới 72.1% trẻ ở mức độ rất kém và 1.9% trẻ ở mức độ rất tốt. Với số phần trăm trẻ ở hai mức độ nhận thức trên, chúng ta đi đến kết luận là trẻ tự kỷ cũng rất kém về khả năng gọi tên sự vật. Như chúng ta đã biết, khả năng xác định sự vật và khả năng gọi tên sự vật đã xuất hiện ở trẻ bình thường từ 2 đến 2.5 tuổi; trong giai đoạn này trẻ em đã sử dụng thành thạo ngón trỏ của mình đề chỉ các đồ vật, thông thường trẻ biết xác định đồ vật trước hết thông qua ngôn ngữ nghe hiểu, và sau đó là trẻ biết sử dụng ngôn ngữ nói để gọi tên đồ vật đó. Liên hệ với khả năng gọi tên sự vật của trẻ tự kỷ chúng ta thấy có tới 72.7% trẻ tự kỷ chưa có khả năng bằng trẻ bình thường 2,5 tuổi. Khi so sánh với khả năng gọi tên sự vật của trẻ bình thường (xem bảng 2), chúng tôi thấy có một sự khác nhau rõ ràng giữa hai nhóm trẻ. Trong mức độ nhận thức rất kém, khi không có trẻ bình thường nào rơi vào, thì ở trẻ tự kỷ có tới 72.1% số trẻ và ở nhận thức rất tốt khi c1 tới 58.8%, thì ờ trẻ tự kỷ chỉ có 1.9%. Như vậy khả năng gọi tên sự vật ở trẻ tự kỷ hạn chế nhiều so với trẻ bình thường cùng tuổi.

5. Nhận thức chung
Kết quả thu được trong nhận thức chung là tổng kết quả của ba thang: nhận thức sự vật, nhận thức hiện tượng và gọi tên sự vật. Kết quả nghiên cứu trên 104 trẻ tự kỷ cho thấy, ở mức độ nhận thức rất kém có 44.2% và nhận thức rất tốt có 1.9%. với hai con số khá chênh lệch trên chứng tỏ khả năng nhận thức của trẻ tự kỷ là rất kém.
Như chúng ta đã biết, khả năng nhận thức của trẻ có liên quan đến nhu cầu tìm hiểu thế giới, khả năng trí tuệ, số lần tiếp cận sự vật, hiện tượng của trẻ và cách thức hướng dẫn của người lớn. Khi liên hệ với bốn đặc điểm trên thì trẻ tự kỷ đều gặp những khó nhăn nhất định: Thứ nhất: Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, chúng ta điểm qua về nhu cầu tìm hiểu thế giới mang tình tự nhiên của trẻ bình thường. Nhu cầu tìm hiểu thế giới xung quanh của trẻ bình thường gần như mang tình bản năng, ngay từ khi sinh ra với khả năng thị giác trẻ đã khám phá thế giới một cách tự nhiên, sự khám phá của trẻ càng tăng cao hơn khi trẻ dần thành thục về khả năng vận đông, mỗi giai đoạn phát triển vận động khác nhau trẻ sẽ có những phương thức khám phá khác nhau: khám phá khi trẻ bắt đầu biết hua hua bàn tay, khám phá khi trẻ biết lẫy, khám phá khi trẻ biết ngồi, biết bò và khám phá khi trẻ biết đi, biết chạy. Trái lại, cũng phát triển vận động như trẻ bình thường, nhưng trẻ tự kỷ không có nhu cầu khám phá thế giới đồ vật như trẻ bình thường, nhu cầu khám phá thế giới bị bó hẹp trong sở thích máy móc của trẻ; sự kích thích, tác động của môi trường xung quanh sẽ không có ý nghĩa đối với trẻ, khi trẻ không thấy một sự vật hoặc hiện tượng cụ thể nào làm cho trẻ thích thú. Thứ hai: Về khả năng trí tuệ, qua kiểm tra trên cơ sở test Denver, cho thấy có tỉ lệ khá cao trẻ tự kỷ bị chậm phát triển trí tuệ, và đó cũng là khó khăn chính ảnh hưởng đến khả năng nhận thức của trẻ. Thứ ba: Số lần tiếp cận đồ vật hay hiện tượng cũng ảnh hưởng đến khả năng nhận thức của trẻ, nhưng do trẻ tự kỷ chỉ lĩnh hội sự vật hay hiện tượng khi nó có ý nghĩa với mình, do đó mà số lần tiếp cận ít ảnh hưởng đến khả năng nhận thức của trẻ tự kỷ hơn, cho dù số lần tiếp cận sự vật, hiện tượng của trẻ có nhiều bao nhiêu đi nữa, nếu trẻ không thích thì số lần tiếp cận đó cũng không làm tăng thêm khả năng nhận thức cho trẻ. Thứ tư: Người hướng dẫn có ý nghĩa và tầm quan trong to lớn đối với trẻ tự kỷ; Như chúng ta đã biết, sự lĩnh hội tri thức của trẻ em chủ yếu xảy ra theo ba con đường là tập nhiễm, bắt chước và giáo dục, trong đó kiến thức thông qua con đường tập nhiễm và bắt chước lớn gấp nhiều lần thông qua con đường giáo dục. Khac với trẻ bình thường, khả năng bắt chước và tập nhiễm của trẻ tự kỷ là rất hạn chế; do đó muốn nâng cao khả năng nhận thức cho trẻ tự kỷ sẽ chủ yếu thông qua con đường giáo dục. Do đặc điểm nhận thức của trẻ tự kỷ không giống như trẻ bình thường, nên hình thức giáo dục đối với trẻ tự kỷ sẽ là chương trình can thiệp đặc biệt, chương trình này khác xa so với giáo dục bình thường ở trẻ bình thường. Ngày nay trên thế giới xuất hiện nhiều chương trình can thiệp cho trẻ tự kỷ, như: phương pháp ABA, TEACCH, PECS, SMALL STEP, FLOOR TIME, … Kết quả nhận thức chung mà chúng tôi tổng kết được trên cơ sở đo trẻ bình thường và trẻ tự kỷ cho thấy: Mức độ nhận thức rất tốt, trẻ bình thường 76.5%, trẻ tự kỷ 1.9%; Mức độ tốt, trẻ bình thường 23.5%, trẻ tự kỷ 2.9%; Mức độ trung bình, không có trẻ bình thường, nhưng trẻ tự kỷ là 15.4%; Mức độ kém và rất kém không có trẻ bình thường, nhưng lại có tới 55.6% và 44.2% ở trẻ tự kỷ.
Từ kết quả nghiên cứu trên chúng ta thấy có một tỉ lệ nghịch tương đối trong nhận thức của trẻ tự kỷ và trẻ bình thường, trong khi hầu hết trẻ bình thường có khả năng nhận thức tốt và rất tốt, thì hầu như trẻ tự kỷ có mức độ nhận thức kém và rất kém. Điều này suy ra có tỉ lệ khá cao trẻ tự kỷ chậm phát triển nhận thức và trí tuệ.


6. Những kinh nghiệm lâm sàng qua chăm chữa cho trẻ tự kỷ.
Qua chăm chữa trẻ tự kỷ, chúng tôi thấy sự phát triển nhận thức của trẻ hết sức bất thường, so sánh nhận thức xét trên mặt bằng chung là thấp hơn nhiều so với trẻ bình thường cùng tuổi. Đồng thời sự tiến triển nhận thức cũng không phát triển theo logic thông thường, vì ngoài chậm phát triển, trẻ còn có biểu hiện rối loạn phát triển. Do đó việc chăm chữa và giáo dục cho trẻ tự kỷ là một điều hết sức khó khăn và phức tạp.
Cảm nhận giác quan: phần lớn trẻ tự kỷ có những khó khăn trong việc cảm nhận giác quan, trẻ có thể thiếu nhạy cảm hay quá nhạy cảm đối với một giác quan hay nhiều giác quan. So với trẻ bình thường, ngưỡng cảm giác của trẻ có thể là quá cao hay quá thấp khiến cho trẻ không thể tri giác chính xác sự vật, hiện tượng xung quanh hoặc tri giác quá khác thường so với người bình thường. Theo những mô tả của nhiều tác giả nghiên cứu trẻ tự kỷ thì sự rối loạn này xảy ra trên tất cả các cơ quan cảm nhận, nhưng đối với từng cá nhân trẻ tự kỷ có những bất thường ở cơ quan cảm nhận khác nhau hoặc tại một thời điểm khác nhau sẽ gặp bất thường ở một cơ quan cụ thể.
Nhận thức các tình huống xã hội: Hầu như trẻ tự kỷ không thích giao tiếp cũng như trải nghiệm các tình huống xã hội, trẻ thích chơi một mình hơn là phải chơi với các bạn khác. Chính vì lý do đó mà trẻ không bao giờ quan tâm đến việc học các chuẩn mực xã hội cũng như những kỹ năng ứng xử với con người. Động cơ thúc đẩy hành động của trẻ tuyệt đối xuất phát từ sở thích bản thân, không liên quan sở thích chung của mọi người, các giá trị cũng như chuẩn mực xã hội khiến người khác phải quan tâm học hỏi thì đối với trẻ tự kỷ không có ý nghĩa gì. Chính vì lý do đó mà người bị tự kỷ luôn được coi là kỳ cục và lạ lẫm so với xã hội nói chung, ngay cả khi trẻ tự kỷ có khả năng trí tuệ cao thì sự kỳ lạ trong tính cách cũng không thể che dấu.
Trí nhớ máy móc: Đây được xem là điểm mạnh của trẻ tự kỷ, vì khi trẻ đã thích sự vật hay sự kiện gì thì trẻ nhớ rất lâu và chi tiết. Nhiều phụ huynh kể lại, con họ có thể nhớ ngõ ngách đường đi một cách chính xác khi chỉ đi qua một lần, có những trẻ nhớ lời bài hát và âm nhạc khi trẻ mới nghe qua, những trẻ khác có thể đọc thuộc lòng một quyển truyện đến mức không thiếu cả dấu chấm, dấu phẩy , …Những trẻ tự kỷ có khả năng biết đọc khi chưa bao giờ đi học cũng nằm trong trí nhớ loại này.
Chơi tưởng tượng: Khả năng chơi tưởng tượng hay giả vờ là một vấn đề khó khăn đối với trẻ tự kỷ. Đối với trẻ bình thường, vào khoảng từ ba đến bốn tuổi bé rất thích nói chuyện một mình và tự nghĩ ra các tình huống giả tưởng và nhân vật giả tưởng, lớn hơn trẻ có thể biết chơi bán đồ hàng rồi đến chơi đóng vai cùng những trẻ khác, như trẻ giả vờ làm bác sỹ khám bệnh, cô giáo giảng bài, chú bộ đội bắn súng…Trong khi đó trẻ tự kỷ ở tuổi này hoàn toàn không biết chơi tưởng tượng cũng như trẻ không hứng thú đối với các hoạt động tưởng tượng.
Khả năng rút ra các kinh nghiệm: Do trẻ tự kỷ gặp khó khăn trong nhận thức khái quát nên trẻ hầu như không để ý đến những liên hệ lẫn nhau của các đồ vật hay những điểm liên kết nhau trong cùng đồ vật. Nghĩa là khả năng của tư duy như phân tích tổng hợp, trừu tượng hóa và khái quát hóa nhận xét…ít được sử dụng trong khám phá và nhận biết thế giới.
Khả năng ý thức sự tự phục vụ: Do trẻ tự kỷ không quan tâm đến hướng dẫn của cha mẹ và cô giáo đồng thời trẻ thích làm theo ý của mình, vì điều này nên các nhà trị liệu và gia đình gặp khó khăn trong việc dạy trẻ biết sạch sẽ và tự phục vụ bản thân.
Ngoài những yếu tố trên, trẻ tự kỷ còn có một số đặc điểm nhận thức khác như: Khả năng nhận thức thông qua thị giác tốt hơn thính giác, nhận thức trực quan tốt hơn nhận thức trừu tượng, trẻ tốt trong tiếp nhận những kiến thức tự nhiên hơn các kiến thức xã hội, ngoài ra trẻ có khả năng tư duy ngôn ngữ bị tổn thương, khó khăn trong việc hiểu ngôn ngữ và hành vi phi ngôn ngữ, hạn chế trong việc hiểu và biểu hiện tình cảm. Trái lại có một số trẻ tự kỷ có khả năng trí tuệ bình thường rất giỏi trong nhận thức các môn khoa học tự nhiên và nghệ thuật: làm toán, hội họa, âm nhạc, điều khiển các thiết bị điện tử, …
Qua những nghiên cứu khả năng nhận thức và chăm chữa thực tế, chúng tôi thấy hầu hết trẻ tự kỷ đều ít nhiều gặp khó khăn trong học tập và tiếp thu kiến thức, trong khi đó khả năng nhận thức của trẻ tự kỷ là một trong những yếu tố quyết định đến sự cải thiện của chứng tự kỷ, đồng thời nó cũng ảnh hưởng đến tiến trình trị liệu và chất lượng trị liệu mà những nhà chuyên môn và các bậc phụ huynh thực hiện.


TS. NGÔ XUÂN ĐIỆP



Chủ Nhật, 25 tháng 7, 2010

ROI LOAN TU KY



Theo thông báo của Thượng viện Hoa Kỳ tháng 12 năm 2006, cứ bình quân khoảng 166 trẻ được sinh ra sẽ có 1 trẻ bị tự kỷ. Như vậy tỷ lệ bệnh tự kỷ cao hơn các bệnh Down, ADHD, tâm thần… ở trẻ em. Báo cáo từ Bộ Y tế Trung Quốc ( 2006) cho thấy, cả nước hiện có hơn 1,6 triệu trẻ tự kỷ và tỷ lệ có thể cao hơn nữa vì nhiều trẻ chưa được chẩn đoán kịp thời. Khái niệm “dịch tự kỷ” đã xuất hiện ở quốc gia đông dân nhất thế giới này.
Bệnh tự kỷ là một hội chứng đa khuyết tật, biểu hiện sự rối loạn phát triển trong hành vi, nhận thức, ngôn ngữ và quan hệ xã hội. Trẻ tự kỷ muốn đóng kín thế giới riêng của mình, không quan tâm đến thế giới xung quanh, không muốn giao tiếp liên lạc với người khác. Do đó trẻ tự kỷ rất hạn chế trong việc hiểu biết môi trường xung quanh, các chuẩn mực xã hội nói chung và những quy tắc, kĩ năng ứng xử qua lại giữa con người.
Năm 1943, trong một bài báo với nhan đề “Autism Disturbance of Effective Contract”, chứng tự kỷ lần đầu tiên được mô tả một cách rõ ràng và khoa học bởi bác sỹ tâm thần người Mỹ là Leo Kanner. Mô tả của ông như sau: trẻ tự kỷ thiếu quan hệ tiếp xúc về mặt tình cảm với người khác; thể hiện cách chọn lựa các thói quen hàng ngày rất giống nhau về tính kỳ dị và tính tỉ mỉ; không có ngôn ngữ hoặc ngôn ngữ thể hiện sự bất thường rõ rệt; rất thích xoay tròn các đồ vật và thao tác rất khéo; có khả năng cao trong quan sát không gian và trí nhớ “như con vẹt”; khó khăn trong học tập ở những lĩnh vực khác nhau; bề ngoài những trẻ này xinh đẹp. Nhanh nhẹn, thông minh; thích độc thoại trong thế giới tự kỷ; thất bại trong việc hiểu hành vi giả bộ và hành vi đoán trước; chỉ hiểu nghĩa đen của câu nói; tiếng động và vận động lặp đi lặp lại đơn điệu; giới hạn đa dạng các hoạt động tự phát. Kanner nhấn mạnh triệu chứng tự kỷ có thể phát hiện được ngay khi trẻ ra đời hoặc trong khoảng 30 tháng đầu .
Năm 1944, một bác sỹ tâm thần là Hans Asperger (1906-1980) cũng có những mô tả gần giống Kanner và cũng đặt tên cho triệu chứng này là tự kỷ (autism), ngày nay chúng ta gọi đó là hội chứng Asperger, một dạng bệnh tự kỷ nhẹ. Mô tả của Asperger như sau: Ngôn ngữ phát triển bình thường, tuy nhiên trong cách diễn tả và phát âm nhiều cung điệu lên xuống không thích hợp với hoàn cảnh. Có những rối loạn trong cách sử dụng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất “con, tôi” lẫn lộn với ngôi thứ hai và ba. Vẫn có những tiếp xúc về mặt xã hội nhưng có xu hướng thích cô đơn, đơn độc. Rối loạn đặc biệt nhất trong hội chứng này là cách suy luận rườm rà, phức tạp, không thích ứng với những điều kiện, hòan cảnh xã hội. Những người mang hội chứng có những sở thích đặc biệt về mặt kỹ thuật và toán học, đồng thời họ có khả năng nhớ tốt một cách lạ thường. Các thần đồng trong học tập thường nằm trong triệu chứng này.

Theo thống kê từ 90 hồ sơ trẻ tự kỷ từ 4 đến 6 tuổi tại Khoa Tâm lý Bệnh viện Nhi Đồng 2, TP. Hồ Chí Minh, chúng tôi nhận thấy hầu hết trẻ tự kỷ có những bất thường sau (theo dõi bảng trên).
Với nhu cầu trị liệu ngày càng cao của các gia đình có trẻ tự kỷ, đã xuất hiện nhiều tổ chức nghiên cứu và trị liệu: khoa Tâm thần và khoa phục hồi chức năng, viện Nhi Trung ương, Khoa Tâm lý trẻ em – Bệnh viện Nhi đồng 2, Thành phố Hồ Chí Minh; tổ Tâm lý Bệnh viện Nhi đồng 1, Thành phố Hồ Chí Minh; Khoa tâm lý – Y học Bệnh viện Tâm thần, Thành phố Hồ Chí Minh; Khoa Giáo dục đặc biệt trường Đại học Sư phạm Hà Nội; Khoa Giáo dục đặc biệt trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh; Khoa Giáo dục đặc biệt trường Cao đẳng Sư phạm mẫu giáo Trung ương 3; Trung tâm nghiên cứu và giáo dục trẻ khuyết tật, 108 Lý Chính Thắng, Thành phố Hồ Chí Minh; Bệnh viện ban ngày Mai Hương, Hà Nội; Trung tâm Phúc Tuệ, Hồ Tây, Hà Nội; Khoa Tâm lý, Bệnh viện Tâm thần Biên Hòa, Đồng Nai. Trường chuyên biệt Bim bim: 381/4/10, Phan Văn Trị, P 11, Bình Thạnh, Tp. Hồ Chí Minh
Qua thăm khám và trị liệu cho trẻ tự kỷ, chúng tôi thấy sự phát triển nhận thức của trẻ tự kỷ hết sức bất thường, trong đó hầu như khả năng nhận thức so với mặt bằng chung là thấp hơn trẻ cùng tuổi. Đồng thời sự tiến triển nhận thức cũng không phát triển theo logic thông thường, vì ngoài chậm phát triển, trẻ còn có biểu hiện rối loạn phát triển: chủ yếu trẻ tự kỷ chậm nhận thức đối với các môn khoa học xã hội, khó khăn trong việc hiểu ngôn ngữ và hành vi phi ngôn ngữ., hạn chế trong việc biểu hiện xúc cảm, tình cảm của người khác. Nhưng trái lại trẻ khá hơn trong việc nhận thức các môn khoa học thuộc tự nhiên và một số môn nghệ thuật như: toán học, điện tử, hội họa, âm nhạc,… Do đó việc chăm chữa và giáo dục cho trẻ tự kỷ là một điều hết sức khó khăn và phức tạp.
Vì lý do đó mà bệnh tự ky không chỉ là bệnh của y khoa mà còn là bệnh về Tâm lý, Giáo dục và Xã hội. Theo sau các triệu chứng lâm sàng là hành loạt các vấn đề xã hội được đặt ra cho trẻ tự kỷ và gia đình.

TS. NGÔ XUÂN ĐIỆP

Thứ Bảy, 24 tháng 7, 2010

BENH TU KY

BỆNH TỰ KỶ

Bệnh Tự kỷ là gì?
Bệnh tự kỷ là một sự rối loạn phát triển ảnh hưởng đến khả năng giao tiếp của con người, đến hình thức quan hệ với người khác và đáp ứng phù hợp với con người trong môi trường. Chứng tự kỷ bắt đầu trong thời thơ ấu và được cho là một rối loạn suốt đời. Một vài triệu chứng có liên hệ với chứng tự kỷ có thể thay đổi trong số những cá nhân, nhưng nói chung những người tự kỷ có xu hướng suy giảm quan hệ xã hội, giao tiếp, vận động và cảm giác mà điều này ảnh hưởng đến hành vi ứng xử của họ. Những người bị tự kỷ nặng có thể có chỉ số thông minh dưới trung bình, hầu như thiếu những kỹ năng ngôn ngữ, hay chậm phát triển ngôn ngữ. Một số cá nhân bị tự kỷ dường như khép kín với bên ngoài và không hứng thú với người khác, có vẻ bị đóng khung trong những hành vi lặp đi lặp lại và những kiểu mẫu suy nghĩ cứng nhắc. Người tự kỷ có thể biểu lộ những chuyển động thân thể lặp lại như vỗ, gõ nhẹ ngón tay, đu đưa hay lắc lư thân thể. Những cá nhân bị tự kỷ có thể cho thấy một loạt những hành vi ứng xử: hiếu động thái quá, thiếu chú ý, bốc đồng, sự hung tính, và tự gây thương tích.
Bệnh tự kỷ được phát hiện khi nào?
Năm 1943 Bs.Leo Kanner làm việc tại Bệnh viện Johns Hopkins (Hoa Kỳ) đã nghiên cứu một nhóm 11 trẻ em cùng bài viết với tựa đề chứng tự kỷ ở trẻ nhỏ bằng tiếng Anh. Cùng thời gian đó (1944) một nhà khoa học Đức, Bs. Hans Asperger, mô tả một dạng nhẹ hơn của rối loạn với tên gọi hội chứng Asperger. Như vậy hai rối loạn này ngày nay được mô tả và liệt kê trong Sổ Tay Chẩn Đoán và Thống Kê Những Rối Loạn Tâm Thần (DSM- IV).
Tất cả những rối loạn này được đặc trưng bằng việc thay đổi mức độ của sự suy giảm trong những kỹ năng giao tiếp, những tác động xã hội, và những mẫu hành vi nghèo nàn, lặp lại và rập khuôn.
Bệnh tự kỷ xuất hiện ở trẻ khi nào?
Những rối loạn phổ tự kỷ thông thường được phát hiên đáng tin cậy là lúc 3 tuổi, và trong một số trường hợp sớm hơn khoảng 18 tháng tuổi. Những nghiên cứu đưa ra giả thuyết là nhiều trẻ em có thể được xác định chính xác lúc 1 tuổi hay thậm chí sớm hơn. Sự xuất hiện của bất kỳ dấu hiệu cảnh báo nào về rối loạn tự kỷ là lý do để đứa trẻ được đánh giá bởi một nhà chuyên môn trên những rối loạn này.
Thông thường đầu tiên bố mẹ chú ý đến những hành vi khác thường ở đứa con của họ. Trong một số trường hợp, đứa trẻ dường như có sự khác biệt từ khi sinh, không đáp ứng vui vẻ đến những người xung quanh hay tập trung chăm chú vào một tiểu tiết trong khoảng thời gian dài. Những dấu hiệu đầu tiên của chứng rối loạn tự kỷ có thể cũng xuất hiện ở trẻ mà có vẻ phát triển bình thường. Khi một đứa trẻ chập chững biết đi nói bập bẹ ê... a.. đột nhiên trở nên yên lặng, thu mình, tự tấn công, hay thờ ơ với giao tiếp xã hội, có một điều gì đó bất thường. Nghiên cứu cho thấy cha mẹ thông thường có thông báo chính xác về những vấn đề phát triển, dù họ có thể không nhận thức rõ bản chất cụ thể hay mức độ của vấn đề.
Những rối loạn phát triển lan tỏa hay rối loạn tự kỷ là phạm vi của một dạng bệnh nặng được gọi là rối loạn tự kỷ đến một dạng nhẹ hơn, là hội chứng Asperger. Nếu một đứa trẻ có tất cả những triệu chứng của những rối loạn này, nhưng không thấy tiêu chuẩn đặc hiệu cho tất cả, chẩn đoán được gọi là Rối Loạn Phát Triển Lan Toả Không Đặc Hiệu (PDD- NOS). Những rối loạn rất nghiêm trọng khác nhưng hiếm gặp cũng bao gồm trong rối loạn phổ tự kỷ là hội chứng Rett và Rối Loạn Tan Rã Thời Thơ Ấu.
Triệu chứng tự kỷ là gì?
Những Người bị tự kỷ biểu hiện một loạt những triệu chứng, từ sự suy giảm trong tương tác xã hội và truyền đạt đến những mẫu hành vi lặp đi lặp lại và giới hạn hứng thú và hoạt động.
+ Tương tác xã hội:
- Sự Suy giảm trong việc sử dụng những hành vi không lời như sự tiếp xúc mắt, sự biểu lộ nét mặt, dáng điệu cơ thể và những cử chỉ.
- Sự Thất bại trong phát triển những quan hệ đồng lứa thích hợp với mức độ phát triển.
- Thiếu sự tương tác xã hội tự nhiên, không chia sẻ sự thích thú, không thể hiện đưa tay hay chỉ trỏ những đối tượng quan tâm cho người khác thấy.
- Thiếu sự tác động qua lại về giao tiếp hay cảm xúc.
- Thiếu sự đa dang, sáng tạo khi giả vờ hoặc chơi giả vờ phù hợp với mức phát triển.
+ Kỹ năng giao tiếp:
- Trì hoãn hoặc thiếu toàn diện trong việc phát triển ngôn ngữ nói.
- Trong tiếng nói của những cá nhân, bất thường khi khởi đầu hay duy trì cuộc nói chuyện với những người khác.
- Ngôn ngữ định hình, rập khuôn hay lặp đi lặp lại.
+ Những mẫu Hành vi:
- Bận tâm với một hoặc nhiều mô hình hành vi lặp lại và đơn điệu, bất thường về cường độ hay mục tiêu của hành vi.
- Không linh hoạt đối với những thói quen hay nghi thức.
- Những sự chuyển động thân thể Lặp lại (bàn tay hay ngón tay gõ gõ, xoắn vặn hoặc chuyển động khác thường toàn bộ thân thể).
- Bận tâm với những bộ phận của đồ vật, như những bánh xe ô tô đồ chơi, hơn là sự quan tâm đến toàn bộ chiếc xe.
+ Những hành vi liên quan khác:
- Hay gây hấn.
- Quá hiếu động.
- Những xu hướng tự gây hại.
- Tính hay cáu giận.
Những cá nhân bị tự kỷ cũng có thể phát triển những triệu chứng đa dạng khác nhau, những rối loạn tinh thần cùng lúc xuất hiện những rối loạn tăng động kém chú ý (ADHD), (chứng) loạn tâm thần, sự buồn chán, rối loạn ám ảnh cưỡng bức và những rối loạn lo âu khác. Khoảng 25 % trẻ em và những thanh niên bị tự kỷ biểu hiện những cơn kích động bất thường. Những cá nhân bị tự kỷ cũng có thể có biểu hiện những hành vi phá phách. Chúng có thể tấn công lại bản thân hay những người khác, hay có nhiều cơn thịnh lộ.
Điều gì gây ra bệnh Tự kỷ?
Không một ai biết chính xác điều gì gây ra bệnh tự kỷ, nhưng những nhà khoa học cho rằng hai nhân tố là: di truyền học và môi trường có thể đóng một vai trò quan trọng. Nghiên cứu Gần đây cho thấy bệnh tự kỷ có liên quan đến những bất thường trong cấu trúc hay chức năng của não. Các nghiên cứu đang diễn ra nhằm khảo sát liệu có phải bệnh tự kỷ ảnh hưởng đến những vùng riêng biệt của não, hoặc xem có những vấn đề về sự truyền tín hiệu từ bộ phận này sang bộ phận khác của não.
Có một vài cuộc nghiên cứu ở trẻ sinh đôi cùng trứng cho thấy bệnh tự kỷ có thể do di truyền. Những cha mẹ mà có một đứa trẻ bị tự kỷ thì có một nguy cơ nhỏ là đứa thứ hai cũng bị tự kỷ, cũng gợi ý đến vai trò của di truyền học. Hiện nay, những nhà khoa học đang nghiên cứu những bất thường trong mã di truyền và gene cụ thể để xác định vai trò mà sự di truyền có thể có trong bệnh tự kỷ.
Bệnh Tự kỷ được chẩn đoán như thế nào?
Thông thường đầu tiên các bậc phụ huynh nhận ra hành vi bất thường ở đứa con của họ trong thời kỳ thơ ấu, như tính không đáp ứng với âm thanh hay không có sự tiếp xúc bằng mắt. Trong những trường hợp khác, cha mẹ có thể chú ý đến đứa con của họ bị thoái lui hay không đạt được những mốc phát triển bình thường.
Hiện thời, phòng thí nghiệm và những công nghệ chụp ảnh não chưa được xem là những công cụ đáng tin cậy chẩn đoán bệnh tự kỷ. Vì vậy mà có nhiều sự rối loạn thần kinh và các bệnh tâm thần khác cũng như bệnh tự kỷ không được chẩn đoán thông qua một cuộc kiểm tra sức khỏe. Ngoài ra, có những vấn đề khác như không có khả năng nghe, vấn đề về tiếng nói hay các rối loạn thần kinh khác cũng có thể gây ra những triệu chứng tương tự như bệnh tự kỷ và cần phải loại trừ đầu tiên.
Khi thấy có vấn đề bác sĩ nhi khoa có thể giới thiệu gia đình tới một chuyên gia như bác sĩ tâm thần nhi, nhà tâm lý học, nhà thần kinh học, hay bác sĩ nhi khoa phát triển để đưa ra một chẩn đoán chung chung. Tiếp theo một chuyên gia thu thập quá trình tiền sử phát triển bệnh học của đứa trẻ và áp dụng thang đánh giá để giúp xác định xem bệnh tự kỷ và nó gây ra những khó khăn gì cho đứa trẻ.

TS. Ngô Xuân Điệp

(Theo International institute Of mental health) (nguồn www.benhviennhi.org.vn)


Thứ Sáu, 23 tháng 7, 2010

DAC DIEM DAC TRUNG CUA TRE TU KY



MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM ĐẶC TRƯNG CỦA TRẺ TỰ KỶ

Trẻ tự kỷ (TTK) có bề ngoài như bình thường. Các chỉ số phát triển vận động như: lẫy, ngồi, bò, trườn, đứng, đi, chạy... giống như trẻ bình thường cùng tuổi. Khác với một số bệnh cơ thể và bệnh tinh thần khác, trẻ bị rối loạn tự kỷ (TK) có tuổi thọ trung bình như người bình thường. Đồng thời, theo mô tả của Kanner, dường như TTK nói chung lại có bề ngoài khôi ngô tuấn tú. Nhưng hầu hết các mô tả về mặt chức năng tâm lý cho thấy có vấn đề rõ rệt.

Tuổi khởi phát

Kanner nhấn mạnh triệu chứng TK có thể phát hiện được ngay khi trẻ ra đời hoặc trong khoảng 30 tháng đầu sau sinh. Những bất thường ở trẻ em trong giai đoạn đầu đời từ 0 - 6 tháng tuổi cho phép phát hiện sớm: như thiếu những cử chỉ trao đổi vui mừng với mẹ; Không tỏ thái độ thích thú, quan tâm khi có người chăm sóc; Thái độ lạnh lùng, lãnh đạm, bình lặng đối với lời nói và khuôn mặt của người mẹ hoặc người thân; Có dấu hiệu né tránh, ngoảnh mặt đi nơi khác khi người khác ở tư thế đối diện với bé; Lặng im cả ngày, ít cử động, khi thì quá ngoan, khi thì quá phá phách; Trương lực cơ quá cứng hoặc quá mềm; Rối loạn giấc ngủ; Thiếu phản xạ bú, mút; Không phát âm bi bô; Không có nụ cười xã hội ở khoảng 4 - 6 tháng tuổi…


Cần đưa trẻ đi khám kịp thời nếu biểu hiện hội chứng TK (ảnh minh họa).
Ở vào khoảng 6 tháng tuổi đến một năm, trẻ không có những cử chỉ vui mừng và thích thú khi có mẹ hay người thân ở gần; Các cử chỉ, điệu bộ không phù hợp với tình huống giao tiếp; Thái độ lãnh đạm với âm thanh và hình ảnh hoặc những kích thích từ môi trường; Nhìn chằm chằm như bị hút vào những vật thể quay tròn, nhìn các ngón tay ve vẩy; Không quan tâm đến đồ chơi nhưng lại chú tâm đặc biệt vào những vật thể lạ như khe hở, hạt bụi, lỗ rách; Không có biểu hiện lo sợ, khóc khi đối diện với người lạ; Không phản ứng khi nghe gọi tên.

Giao tiếp và quan hệ xã hội của TTK

Sự hạn chế trên bình diện quan hệ

Trẻ bị suy giảm nhiều trong ứng xử qua lại với mọi người, hầu hết TTK biểu hiện sự cô lập, thích chơi một mình, tránh giao tiếp với các bạn… số đông phụ huynh cho rằng trong năm đầu tiên trẻ rất ngoan, yên tĩnh, thích chơi một mình, không thích giao tiếp mắt, không có dấu hiệu dang tay khi ai muốn bế bồng, không biết chỉ ngón trỏ và nhìn theo hướng chỉ tay của người khác, không sợ người lạ và cũng không thân thiện với người chăm sóc, không biết cười ở tháng thứ 3, không biết khóc hay biểu hiện sợ hãi ở tháng thứ 8, không phản ứng khi được gọi tên, tránh né giao tiếp bằng mắt nhưng lại có thể nhìn chăm chú vào một điểm bất thường, khả năng gắn bó với người thân rất kém.

Sự hạn chế trong việc hiểu lời nói của TTK

Một trong những lý do mà các phụ huynh có con bị TK đưa trẻ tới bệnh viện khám bệnh là trẻ hầu như không có phản ứng khi được gọi tên, trẻ không quan tâm và làm theo những hướng dẫn của người khác. Các phụ huynh cảm thấy rằng trẻ hoàn toàn không hiểu ngôn ngữ của họ cho dù trẻ vẫn có khả năng nghe bình thường.

Sự suy giảm trong giao tiếp không lời

Hầu hết những trẻ TK đều có khó khăn trong ngôn ngữ biểu cảm, đa số trẻ không hiểu và đồng thời cũng không biết thể hiện ra ngoài những hành vi phi ngôn ngữ, điều này thể hiện khá rõ thông qua việc trẻ không muốn giao tiếp bằng mắt và không biết sử dụng ngón trỏ để chỉ các đồ vật. Cụ thể là khi muốn điều gì, trẻ không nhìn vào mặt người khác và không sử dụng các tín hiệu cử chỉ để báo cho người khác biết mà thường đến kéo tay họ đến chỗ bé cần (đối với trẻ, bàn tay quan trọng hơn khuôn mặt).

Chậm phát triển ngôn ngữ

Có thể đây là dấu hiệu dễ nhận thấy nhất đối với các phụ huynh có con bị TK, trẻ có biểu hiện sự mất ngôn ngữ hay chậm trễ trong phát triển ngôn ngữ. Ngay cả khi trẻ có ngôn ngữ thì ngôn ngữ đó cũng có dấu hiệu bất thường: giọng nói đều đều, không biết biểu cảm qua giọng nói; Không biết nói thầm, nói tiếng gió; Thích độc thoại hoặc không giữ vững cuộc đối thoại; Khó khăn trong việc dùng đại từ nhân xưng; Nhiều khi nói không liên quan đến tình huống giao tiếp, đến môi trường xung quanh; Lời nói tự phát, không có sự khởi đầu khi giao tiếp; Tiếng nói có khuynh hướng lặp đi lặp lại các từ, đoạn, câu.

Hành vi bất thường

Hành vi định hình

Theo Kanner, hành vi định hình là biểu hiện điển hình của TTK. Quan sát lâm sàng cho thấy TTK có hững hành vi rập khuôn, lặp đi lặp lại: trẻ thích đi đi lại lại trong phòng, thích xếp các đồ vật thành hàng thẳng; Vặn, xoắn các ngón tay và bàn tay; Thích chạy vòng vòng và quay vòng vòng; Thích chơi các đồ chơi phát ra tiếng động; Thích bật tắt các nút điện hay điện tử… Những trẻ khác nhau, sở thích về các hành vi định hình khác nhau.

Không thích sự thay đổi

Hầu như TTK muốn tất cả mọi điều phải quen thuộc, gần gũi, trẻ rất ghét sự thay đổi, xáo trộn: từ những đồ dùng cá nhân, đồ dùng học tập cho đến nơi chốn sinh hoạt hàng ngày. Đối với TTK, sự không quen thuộc đồng nghĩa với sự thiếu an toàn, trẻ sẽ cảm thấy bất an khi có một người lạ, đồ vật lạ hay đến một nơi xa lạ. Do đó, việc báo trước cho trẻ chuẩn bị tư tưởng để đón nhận những điều mới lạ là một việc hết sức quan trọng.

Thiếu nhạy cảm hoặc quá nhạy cảm

Ngày nay, những chuyên gia dạy TTK rất quan tâm đến giác quan của trẻ. Theo quan sát của chúng tôi, hầu hết TTK ít nhiều đều có vấn đề về giác quan, biểu hiện việc trẻ hay đưa các đồ vật lên ngửi, liếm. Các rối loạn khác như ăn muối không thấy mặn, ăn chanh không chua, quay tròn lâu không chóng mặt, thích leo trèo cao, thích lộn đầu xuống đất, đập đầu vào tường không biết đau, bịt tai khi nghe thấy âm thanh thông thường. Do đó, trị liệu cảm giác (sensory therapy) cho TTK là một công việc rất được quan tâm hiện nay.

Những gắn bó bất thường

TTK ở một giai đoạn nào đó có những gắn bó với đồ vật theo cách không bình thường như: hàng ngày chỉ sưu tầm các tờ báo, vỏ chai, đồ hộp, tờ lịch, sợi dây, cọng cỏ, bao nilon. TTK thích những đồ vật trong sinh hoạt gia đình như: chén, bát, xoong, chảo, dĩa nhưng hoàn toàn không thích đồ chơi bình thường.


Hành vi gây phiền toái nơi công cộng

Thường TTK ít quan tâm đến các chuẩn mực xã hội, muốn làm theo sở thích cá nhân nên rất dễ có những hành vi trái ngược với sự mong đợi của người khác như: la khóc khi người lớn không đáp ứng sở thích của trẻ, chụp nhanh những đồng tiền từ tay nhân viên bán hàng hay một món đồ chơi từ tay đứa trẻ bên cạnh, tự lấy đồ ở giỏ sách của người khác mà không mắc cỡ, ngượng ngùng. Do TTK có những hành vi khác thường gây phiền toái cho những người xung quanh nên các bậc phụ huynh rất ngại khi cho con đi đến chỗ đông người. Nhưng theo các chuyên gia nghiên cứu về TTK, dù trẻ có làm vậy đi nữa, phụ huynh vẫn nên cho trẻ đến nơi công cộng, điều này giúp trẻ sống hòa nhập với mọi người và lâu dài sẽ có lợi cho sự phát triển của trẻ.

La hét, giận dữ

TTK có những sở thích, thói quen kỳ lạ nên trẻ thường ứng xử không đúng với những chuẩn mực xã hội thông thường. Khi người lớn thấy vậy và ngăn chặn hành vi bất thường đó sẽ làm trẻ rất khó chịu và có những hành vi nổi cáu, gây hấn. Đồng thời do TTK gặp khó khăn về ngôn ngữ, không biểu đạt được những ý nghĩ của mình ra ngoài nên người lớn không hiểu trẻ và không hiểu nhu cầu của trẻ. Vì vậy, sự khó chịu của trẻ xuất hiện khá thường xuyên so với trẻ bình thường.

Những hành vi liên quan khác

Những cá nhân bị TK cũng có thể phát triển những triệu chứng đa dạng khác nhau, những rối loạn tinh thần xuất hiện bao gồm rối loạn tăng động kém chú ý, (chứng) loạn tâm thần, sự buồn chán, rối loạn ám ảnh cưỡng bức và những rối loạn lo âu khác. Những cá nhân bị TK cũng có thể có biểu hiện những hành vi phá phách. Trẻ có thể tấn công lại bản thân hay những người khác. Trên đây là những đặc điểm cơ bản về hội chứng TK, điều này giúp chúng ta có cách nhìn toàn diện, khái quát về TTK, trên cơ sở đó sẽ giúp cho các giáo viên tại các nhà trẻ, những nhà tâm lý trị liệu, các bác sĩ nhi khoa và toàn thể phụ huynh phát hiện sớm và đưa trẻ đi khám kịp thời.


Y học chuyên đề - Sức khỏe trẻ em [ 21/10/2008 9:09 GMT+7 ]
GiaoDucSucKhoe.net

TS.Ngô Xuân Điệp - Chuyên viên tâm lý - Sức Khỏe & Đời Sống

TONG HOP PHUONG PHAP TRI LIEU TRE TU KY



Bệnh tự kỷ đã được mô tả từ những năm 40 của thế kỷ 20, nhưng cho đến nay vẫn được coi là điều mới mẻ với nhiều người, thậm chí cả với những nhân viên làm trong ngành y tế. Khi mà chúng ta còn đang mơ hồ về nó thì hàng ngày bệnh tự kỷ vẫn tấn công chúng ta với quy mô không nhỏ.
Với khái niệm tự kỷ theo nghĩa cổ điển cách nay 10 năm, chứng tự kỷ là một bệnh hiếm gặp, tỉ lệ khoảng từ 4-6 trẻ trong 10 000 dân. Theo các nghiên cứu gần đây với khái niệm “Chứng tự kỷ mới” (New autism) đã cho thấy tỉ lệ đáng lo ngại, cứ 150 trẻ em được sinh ra sẽ có 1 trẻ bị tự kỷ. Khái niệm “dịch tự kỷ” đã xuất hiện ở Hoa Kỳ, Trung Quốc và đây cũng là vấn đề thời sự hiện nay trên thế giới.

TẠI SAO BỆNH TỰ KỶ LÀ VẤN ĐỀ THỜI SỰ
Khi một trẻ em được chẩn đoán “Tự Kỷ” thì chứng này sẽ theo trẻ đó suốt cả cuộc đời, cũng đồng nghĩa với việc trẻ sẽ đi cùng vời những rối loạn phát triển: Các khiếm khuyết về nhận thức, rối loạn cảm giác, khó khăn trong quan hệ giao tiếp với mọi người, chậm phát triện ngôn ngữ, biểu hiện các hành vi bất thường, rối loạn cảm xúc…Làm cho người bị tự kỷ phát triển khác thường về nhân cách, khó khăn trong hoà nhập cộng đồng.
Cho đến nay bệnh tự kỷ vẫn là điều bí ẩn, vì qua rất nhiều giả thuyết và các công trỉnh nghiên cừu hơn nửa thế kỷ qua vẫn chưa đưa ra được nguyên nhân chình xác về chứng tự kỷ.
Theo một số nhà nghiên cứu Hoa Kỳ, tỉ lệ trẻ tự kỷ rất cao trong số trẻ sơ sinh và chứng này ngày càng gia tăng nhưng không biết rõ nguyên nhân.
Khi khoa học chưa tìm ra nguyên nhân chình xác của bệnh tự kỷ cũng có nghĩa là chưa đưa ra được phương pháp trị liệu hữu hiệu nhất. Điều này dẫn đến nhiều phương pháp trị liệu trẻ tự kỷ xuất hiện trong thời gian gần đây.

CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG TRỊ LIỆU TRẺ TỰ KỶ
Do bệnh tự kỷ là một dạng rối loạn phát triển lan toả, là bệnh không khu trú vào một lĩnh vực cụ thể nào, thể hiện sự rối loạn toàn diện các mặt trong đời sống tâm lý con người. Khi mà các bác sỹ tâm thần vẫn chưa tìm ra phương thuốc trị liệu hữu hiệu thì các nhà tâm lý, nhà giáo dục học, vật lý trị liệu, chỉnh âm, tâm vận động…tham gia trị liệu đã đem lại nhiều kết quả đáng khích lệ. Sau đây là một số phương pháp đã từng được áp dụng trong trị liệu trẻ tự kỷ trên thế giới và Việt Nam.
Theo quan niệm trước đây, trẻ tự kỷ chỉ được chữa trị một phương pháp hay một số phương pháp theo quan điểm của những người trị liệu trực tiếp trên trẻ (người theo một phương pháp nào đó) hay cha mẹ chúng. Ngày nay, do có nhiều chuyên gia trong nhiều lĩnh vực khác nhau cùng quan tâm đến chứng tự kỷ nên đã xuất hiện nhiều phương pháp trong việc điều trị. Với quan điểm hiện tại, trị liệu trẻ tự kỷ nên kết hợp nhiều phương pháp khác nhau tuỳ theo khả năng, mức độ và giai đoạn và sự tiến triển bệnh của trẻ.
M ục đích bài tham luận này cung cấp một cách toàn diện hệ thống các phương pháp trị liệu trẻ tự kỷ hiện hành, giúp các bậc phụ huynh và những nhà chuyên môn có cách nhìn khái quát về nội dung, phương pháp cũng như cách thức tiến hành.

I. CÁC PHƯƠNG PHÁP Y – SINH HỌC
1. Sử dụng hóa dược
Điều đầu tiên muốn nói là thuốc không nhằm chữa hết chứng tự kỷ vì chưa có thuốc đặc trị, thuốc chỉ dùng để chữa triệu chứng. Hội chứng tự kỷ gồm nhiều triệu chứng khác nhau và các triệu chứng này thay đổi ở mỗi trẻ. Khi trẻ được cho uống thuốc thì mục đích là chữa một hay nhiều triệu chứng có liên quan. Trong khi sử dụng thuốc các bác sĩ nhắm tới trị liệu làm giảm các triệu chứng: tính hiếu động, kém chú ý, hành vi rập khuôn, hành vi tự hủy hoại, hung hăng, lo lắng quá độ, lầm lì, khó ngủ.

Haloperidol, thuốc chống loạn thần, với liều 0,5 à 4 mg/ngày. Thuốc có nhiệm vụ làm giảm tính lầm lì khép kín và hành vi rập khuôn (Campbell, 1983).
Fenfluramine, thuốc kháng serotonin (Levontal 1993).
Naltrexone, thuốc kháng opiate, có tác dụng giảm tăng động, cải thiện quan hệ xã hội (Campbell 1993; Henman 1991; Kalmen 1995).
Clomipvamine, thuốc ức chế thu hồi 5 – HT, có tính chất chống ám ảnh, tác dụng làm giảm các hành vi mang tính nghi thức ám ảnh, hành vi định hình, gây hấn và xung động xã hội, cải thiện quan hệ xã hội.
Fluoxetine, một chất ức chế thu hồi 5 – HT khác, cũng làm giảm triệu chứng chung của tự kỷ nhưng lại gây tác dụng phụ: tăng động, ăn không ngon, mất ngủ (Cook 1992).
Ngoài ra vitamine B6 và magnesium cũng được sử dụng trong trị liệu trẻ tự kỷ…

Tuy nhiên hiện nay chưa có loại thuốc nào đặc trị cho trẻ tự kỷ. Các thuốc trên chỉ để hỗ trợ trị liệu những triệu chứng đơn lẻ, riêng biệt trong hội chứng tự kỷ.

2. Giải độc hệ thống
Xuất phát từ quan điểm cho rằng, trẻ bị tự kỷ là do nhiễm độc thủy ngân và bằng phương pháp loại trừ hệ thống để thải chất thủy ngân ra ngoài. Phương pháp này được coi là có hiệu quả trên cơ sở thực nghiệm chữa trị của một số nhóm bác sĩ tại Mỹ. Tuy nhiên, đến nay phương pháp này vẫn chưa được coi là phương pháp chính thống, do chưa chứng minh được cơ chế gây bệnh cũng như cơ chế khỏi bệnh bằng phương pháp giải độc thủy ngân.

3. Ăn kiêng
Có giả thuyết cho rằng trẻ bị tự kỷ là do trẻ bị rối loạn một số tuyến nội tiết trong cơ thể, thiếu sinh tố, và bị dị ứng với một số chất từ bên ngoài đưa vào cơ thể. Theo một số tác giả của giả thuyến này trẻ tự kỷ cần được kiểm soát chặt chẽ những thành phần hóa học của những chất cung cấp cho cơ thể. Do đó, ăn kiêng là biện pháp đưa lên hàng đầu của phương pháp này. Các chất mà các tác giả đưa ra là: sữa và các sản phẩm làm từ sữa, đường, bột mì…

Đây vẫn được coi là giả thuyết vì chưa có một công trình khoa học nào được khẳng định chắc chắn về vấn đề này.

4. Vật lý trị liệu
Phương pháp này nhằm giúp trẻ hoạt hóa một số cơ quan vận động không được hoạt động hoặc hoạt động kém ở trẻ tự kỷ. Trong sinh hoạt hằng ngày, có nhiều cơ quan vận động của trẻ hoạt động bình thường, nhưng trẻ tự kỷ không muốn vận động cơ quan đó do tính tự kỷ quy định; vật lý trị liệu là cách tốt nhất giúp trẻ hoạt hóa các cơ quan này. Các hoạt động vận động của trẻ thường gặp khó khăn là: vận động chéo của chân và tay, vận động của cơ quan phát âm, các vận động tinh của đôi bàn tay và có những trẻ gặp khó khăn cả trong vận động thị giác khi tri giác các sự vật và hiện tượng trong thế giới.

Vật lý trị liệu còn giúp loại bỏ những hành vi định hình đặc trưng của trẻ tự kỷ, thay vào đó là sự tăng cường các hành vi tích cực, phù hợp với hoàn cảnh, với hoạt động xã hội của bản thân trẻ tự kỷ.

5. Bấm huyệt
Theo định nghĩa của Bộ Y tế Nhật Bản, bấm huyệt là thủ thuật dùng ngón tay cái, các ngón khác và lòng bàn tay, với sự trợ giúp của dụng cụ bất kỳ (cơ học hay loại khác) để tạo áp lực trên da bệnh nhân. Mục đích là điều chỉnh các rối loạn chức năng, tạo hưng phấn, duy trì sức khỏe và điều trị một số bệnh đặc thù.
Phương pháp được áp dụng nhiều cho những trẻ tự kỷ tại Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông và Việt Nam. Có phụ huynh cho rằng khi trẻ tự kỷ được kết hợp nhiều phương pháp, trong đó có phương pháp châm cứu, bấm huyệt thì trẻ có tiến bộ rõ ràng, trẻ có thể nói được một số từ và hợp tác hơn với người lớn, chịu chơi với trẻ em khác hơn. Đây là phương pháp khó chứng minh về mặt khoa học nhất trong nhóm các phương pháp y – sinh học. Do vậy mà phương pháp này cũng chưa được kiểm chứng thuyết phục về mặt khoa học.

6. Nerofeedback
Phản hồi thần kinh (NFB), cũng được gọi là trị liệu thần kinh, phản hồi sinh học thần kinh hay phản hồi sinh học qua điện não đồ (EEGBF) EEG là một kỹ thuật chữa bệnh bằng việc phản hồi tức thời trên hoạt động của sóng điện não, như được đo bởi những điện cực trên da đầu, biểu hiện điển hình trên màn hình video. Mục tiêu sẽ cho phép điều khiển có ý thức hoạt động của sóng điện não. Nếu hoạt động não thay đổi theo xu hướng mong muốn của bác sĩ thì một " phần thưởng " tích cực được trao cho cá nhân, và nếu hoạt động của song điện não theo hường tiêu cực thì hoặc là có một sự phản hồi âm tính hoặc là không có sự phản hồi nào được đưa ra (phụ thuộc vào nghi thức). Những phần thưởng có thể đơn giản như sự thay đổi cao thấp của một âm thanh hay độ phức tạp của một kiểu hoạt động nhất định trong đặc tính của một trò chơi video. Kinh nghiệm này có thể được gọi là sự điều hoà có kiểm soát những trạng thái trong cơ thể.
Với phương pháp này có thể hỗ trợ tích cực khi muốn trẻ tự kỷ tương tác với kích thíchtrong điều trị.

7. Oxy cao áp(hyperbaric oxygen - HBO)
HBO là một điều trị y học trong đó bệnh nhân được đặt trong môi trường ô-xy tinh khiết gần như 100% với áp lực lớn hơn 1,4 atmosphere. Ngoài hô hấp, lượng ô-xy thấm qua da và hòa tan trong huyết tương sẽ tăng 22 - 30 lần so với ô-xy trong máu người bình thường. Ô-xy cao áp vừa có tác dụng điều trị, vừa có tác dụng điều dưỡng. HBO có hai tác dụng làm giảm kích thước những bóng khí gặp trong những bệnh tắc mạch như bệnh giảm áp, hoại thư hay gia tăng ô-xi trong tất cả các mô trong cơ thể. Nếu cho bệnh nhân thở ô-xy nguyên chất ở áp suất 3 atmosphere thì lượng ô-xy hòa tan trong máu sẽ lớn hơn trên 20 lần so với bình thường.
Phương pháp này đang được điều trị trẻ tự kỷ khá phổ biến ở TP. Hồ Chí Minh.

8. Trị liệu tế bào gốc (Term cell therapy)
Tế bào gốc thường là những tế bào ở giai đoạn rất sớm có khả năng phân chia để tạo ra nhiều tế bào gốc hơn, hoặc trong những điều kiện thích hợp có thể biến thành các loại tế bào chuyên biệt khác chẳng hạn như tế bào thần kinh, cơ, da, gan, v.v... Tế bào gốc là tế bào chủ của cơ thể, có tiềm năng trở thành nhiều loại mô khác nhau. Việc lưu giữ tế bào gốc mở ra những phương pháp mới để sửa chữa và thay thế các mô bị bệnh hoặc tổn thương trong cơ thể.
Một số quan niệm tin rằng trẻ bi tự kỷ là do bị khiếm khuyết một hệ thống gien di truyền nào đó, những tác giả của quan niệm này hy vọng khi bản đồ gien được giải mã hoàn toàn sẽ là cơ hội duy nhất chữa thành công bệnh tự kỷ.

9. Hoạt động trị liệu
. Vận động thô
Là hình thức trị liệu dễ làm và đơn giản, với mục đích tăng cường khả năng hoạt hoá các hành vi, nâng cao thể lực, củng cố các hành vi tích cực, giảm thiểu các hành vi tiêu cực, nâng cao khả năng tập trung chú ý, là giai đoạn cần thiết để trước khi thực hiện chương trình giáo dục đặc biệt
. Thể dục
Chương trình này tạo cho trẻ bắt chước, cùng hoạt động với bạn bè, sự tương tác qua lại, hình thành những nhận thức xã hội, tăng cường thể lực, hỗ trợ tốt cho giáo dục đặc biệt.

Ngoài ra còn các phương pháp khác như: Massage, châm cứu…cũng được sử dụng trong trị liệu trẻ tự kỷ.


II. CÁC PHƯƠNG PHÁP TÂM LÝ - GIÁO DỤC

1. Trị liệu phân tâm
Phương pháp này chủ yếu là chơi và nói chuyện, nhằm giúp trẻ và gia đình giải tỏa những căng thẳng dồn nén trong quá khứ, hệ thống lại cấu trúc nhân cách của trẻ. Trong trị liệu phân tâm sẽ giúp cải thiện bầu không khí gia đình, giúp mọi người thấu hiểu thực tại và chấp nhận thực tại tốt hơn, mọi người sẽ vui vẻ hơn trong giao tiếp và chăm sóc trẻ. Điều này giúp trẻ tự kỷ cải thiện tình huống giao tiếp và hình thành sự tiếp xúc qua lại. Khuyến khích trẻ hợp tác trong mọi hoạt động sinh hoạt của gia đình, nhà trường và xã hội; từ đó, tình trạng tự kỷ của trẻ được cải thiện dần dần.

2. Phương pháp tâm vận động
Một phương pháp kích thích trẻ hoạt hóa hành vi. Quan điểm chi phối của phương pháp là: Vận động (hoạt động) của cơ thể sẽ dẫn đến sự nhanh nhậy hệ thần kinh và tác động đến phát triển tâm lý, vận động về cơ thể càng tăng thì vận động về tâm lý tăng theo; phát triển vận động sẽ dần phát triển tâm lý. Đồng thời sự phát triển tâm lý sẽ kéo theo sự phát triển vận động. Phương pháp này giúp những trẻ em gặp các vấn đề khó khăn về tâm lý có khả năng phối hợp các chức năng tâm trí tản mạn, hướng trẻ đến những hoạt động tâm lý có ý nghĩa cho chính trẻ em đó và cho những người xung quanh. Khả năng hợp tác của trẻ được tăng lên khi áp dụng phương pháp.

3. Phương pháp chỉnh âm và trị liệu ngôn ngữ:
Đây là phương pháp can thiệp thường thấy nhất ở trẻ tự kỷ. Trẻ tự kỷ có khó khăn về liên hệ; điều này bị chi phối to lớn bởi ngôn ngữ và lời nói. Theo các chuyên gia âm ngữ trị liệu, nếu trẻ tự kỷ biết nói sẽ ảnh hưởng rất tốt cho sự phát triển trong tương lai. Nên chỉnh âm là một phần đặc biệt quan trọng cho trị liệu. Trị liệu thường được áp dụng cho từng trẻ một, diễn ra từ một đến hai tuần một lần và đôi khi kéo dài nhiều năm. Mục tiêu và phương pháp được soạn dựa vào khả năng ngôn ngữ của trẻ.

4. Trò chơi đóng vai
Đây là sự diễn xuất tình huống, người đóng phải tưởng tượng mình là nhân vật khác, biểu lộ những buồn bực, nóng giận, vui vẻ hạnh phúc… mà vai diễn quy định. Ví dụ: tập làm MC, nhạc công, công an, cô giáo, bác sỹ…
Trò chơi đóng vai thể hiện mức độ cao trong phát triển nhận thức, nêu trẻ làm tốt phương pháp này thì cơ hội hòa nhập của trẻ hầu như bình thường, có thể tham gia tốt vào đời sống xã hội, cộng động.


5. Phương pháp giáo dục đặc biệt
Hầu hết các nước trên thế giới hiện nay, giáo dục đặc biệt cho trẻ tự kỷ là một việc thông thường. Do trẻ tự kỷ bị rối loạn phát triển nên có rất nhiều khiếm khuyết: trí tuệ, giao tiếp, xúc cảm, tình cảm, ngôn ngữ, tự phục vụ… Thông qua giáo dục sẽ giúp trẻ hiểu và có kỹ năng hòa nhập xã hội, tăng cường khả năng giao tiếp, giúp nhận thức sự vật và hiện tượng xung quanh, hiểu biết và quan tâm đến những ứng xử tình cảm của người khác, tăng cao khả năng hội nhập cộng đồng.
Những nước trên thế giới có nền giáo dục phát triển, việc giáo dục trẻ tự kỷ thường sớm hơn trẻ bình thường. Xu hướng hiện nay là giáo dục cho trẻ tự kỷ ngay sau khi đưa ra chẩn đoán. Việc giáo dục trẻ tùy thuộc vào khả năng nhận thức và hành vi của trẻ; mục tiêu, chương trình và phương pháp đều được thiết kế dựa vào mức độ trí tuệ của trẻ.

6. Trị liệu thông qua các môn nghệ thuật
. âm nhạc trị liệu
Cũng giống như các phương pháp trị liệu hiện nay; trị liệu âm nhạc không thể chữa lành bệnh tự kỷ. Mục tiêu mà trị liệu âm nhạc hướng tới là làm giảm bớt các hành vi bất lợi, tăng cường các tương tác xã hội thông qua âm nhạc. Theo các tác giả của phương pháp này, trị liệu âm nhạc tỏ ra lôi cuốn vì nó vượt qua ngôn ngữ, là một cách dẫn đến thế giới xúc cảm, tình cảm mà những điều này đang gây khó khăn cho trẻ tự kỷ. Thế giới xúc cảm, tình cảm được cho là thế giới lạ lùng của trẻ tự kỷ nhưng âm nhạc có thể thâm nhập vào. Âm nhạc có thể đi xuyên vào cõi tiềm thức, vô thức mà trẻ không hề biết, có sức cuốn hút, thâm nhập mà trẻ không thể kháng cự. Đồng thời trẻ tự kỷ trong khi nhận thức chỉ hiểu được nghĩa đen, nghĩa thực tại hiện hữu của sự vật, khó khăn trong hiểu nghĩa bóng, nghĩa ẩn dụ. Ở đây âm nhạc có lợi vì trẻ có thể thưởng thức nhạc theo nghĩa đen mà không cần theo dõi diễn biến trừu tượng của bản nhạc.

. Vẽ và Nặn
Đây là hoạt động mang tính sáng tạo, dễ thực hiện, không quá coi trọng tính đúng sai của sản phẩm, phát huy khả năng tự do tưởng tượng của trẻ. Thông qua vẽ và nặn, trẻ có thể nâng cao khả năng vận động tinh, khả năng phối hợp tay và mắt, giúp trẻ từng bươc làm chủ các vận đông kỷ xảo trong học viết và các thao tác tinh tế khác. Ngoài ra hoạt động này giúp trẻ rèn luyện khả năng tập trung chú y, làm chủ các hành vi một cách có ý thức.

. Thơ, đồng giao
Do trẻ tự kỷ có khả năng nhớ máy móc hơn nhớ ý nghĩa, nên việc dạy trẻ đọc chữ thông qua thơ đồng giao có giá trị đáng khích lệ. Với những tiết tấu, giai điệu, vần điệu, từ ngữ đơn giản, tươi sáng và dễ hiểu của thơ, đồng giao sẽ giúp cho trẻ dễ tiếp thu hơn. Đây là hình thức học tự do không có áp lực.

7. Phương pháp nhóm:
Trẻ tự kỷ gặp khiếm khuyết nghiêm trọng về giao tiếp và tương tác xã hội, phương pháp nhóm giúp trẻ hòa nhập với trẻ em cùng trang lứa với mục đích kích thích trẻ tương tác qua lại với các thành viên khác. Thông qua chơi nhóm, trẻ hiểu những cách ứng xử và quy định của nhóm. Hoạt động của các thành viên chính là những nhân tố kích thích trẻ nhận thức và bắt chước, các thông điệp lời nói và không lời được truyền trong nhóm tác động đến từng thành viên, lôi kéo các thành viên tham gia hoạt động. Tình trạng tự kỷ được cải thiện khi trẻ tự kỷ dần dần chơi tương tác với các thành viên khác trong nhóm.
Có hai loại nhóm: nhóm lớp học và nhóm tự do ngoài môi trường tự nhiên.

8. Phương pháp lao động trị liệu:
Lao động trị liệu hướng dẫn trẻ thực hiện những công việc phải thực hiện hằng ngày tại gia đình hoặc nơi nuôi dạy trẻ. Thông thường trẻ phụ giúp mọi người làm những công việc phù hợp với khả năng và sức khoẻ của trẻ. Thông qua hoạt động này giúp trẻ hiểu chính xác các sự vật và hiện tượng của môi trường tự nhiên, điều này có ý nghĩa to lớn cho tương lai của trẻ khi bước vào cuộc sống tự lập, tự phục vụ bản thân, khi mà không còn các dịch vụ chăm sóc đặc biệt như lúc còn nhỏ.

9. Thủy trị liệu
Nước rất gần với con người, ngoài chức năng nuôi sống cơ thể, nước còn giúp con nguời trong các hoạt động tâm lý xã hội. Hầu hết trẻ em đều thích nước và chơi với nước,thông qua thủy trị liệu trẻ sẽ nhận thức tốt về cảm giác bản thể, các cảm giác da, sự thăng bằng, sự cảm nhận…Nước chính là một trong những chất liệu kích thích nhận thức của trẻ em nói chung và trẻ tự kỷ nói riêng.

10. Dã ngoại trị liệu
Đây là hoạt động nhằm thay đổi môi trường, đẩy trẻ vào môi trường mới lạ đẩy rẫy kích thích, tăng tính tò mò giúp thu thập thông tin. Ngoài ra hoạt động này còn khai thông những sinh hoạt, học tập nhàm chán lặp đi lặp lại trong môi trường quen thuộc. Khi đi dã ngoại, với những hoạt động đặc trưng trẻ có thể pháp huy tối đa tất cả các giác quan hoạt động cùng lúc, giúp phát triển về nhận thức thế giới và cảm nhận cơ thể.

11. Trị liệu cảm giác (sensory therapy)
Theo các chuyên gia nghiên cứu về trẻ tự kỷ, hầu hết trẻ tự kỷ ít nhiều có rối loạn cảm giác tùy theo mưc độ khác nhau và ở những giác quan khác nhau, có những trẻ chỉ bị rối loạn một vài loại giác quan nào đó nhưng cũng có thể tất cả giác quan. Những rối loạn thướng phổ biến ở hai thái cực là thiếu nhậy cảm hoặc quá nhậy cảm hay ngưỡng cảm giác quá thấp hoặc quá cao, cũng có thể trẻ thiếu nhậy cảm ở giác quan này nhưng lại tăng nhậy cảm ở giác quan khác, có khi độ nhậy cảm của trẻ bị thay đổi trẻn cùng một giác quan ở những thời điểm khác nhau hay hoàn cảnh khác nhau.
Do cảm giác là cơ quan thụ cảm, là đầu vào của các hoạt động nhận thức, nều cảm giác bị rối loạn tất yếu dẫn đến rối loạn nhận thức, đồng thời sẽ gây ra rối loạn phát triển. Chính vì lý do đó mà trong trị liệu trẻ tự kỷ trị liệu cảm giác là công việc rất quan trọng.

12. Động vật trị liệu
Cũng là phương tiện trị liệu như đồ vật, hình ảnh hay đồ dùng học tập…, trong trị liệu trẻ tự kỷ động vật trị liệu khác về chất so với những công cụ trên. Các công cụ trị liệu là những vật vô tri vô giác chịu sự tác động thụ động của con người, trong khi đó động vật có những phản ứng tự nhiên nhiều khi không theo hướng dẫn của con người. Khi con người tác động với con vật là quan hệ tương tác hai chiều, con vật có thể tuân theo ý muốn của con người và cũng có thể không tuân theo, mối tương tác này diễn ra theo chiều hướng phong phú hơn rất nhiều khi con người tương tác với đồ vật. Trong việc sử dụng động vật để trị liệu không những con người kích thích con vật mà ngược lại con vật kích thích cả con người.
Do đó sử dụng động vật trong trị liệu trẻ tự kỷ với sự tương tác của con vật phần nào giúp trẻ cởi mở hơn, hạn chế việc cố định đóng khung trong trạng thái tự kỷ.

13. Tư vấn tâm lý
Nhằm cung cấp cho các phụ huynh những thông tin về trẻ tự kỷ: phương pháp can thiệp, cách chăm sóc giáo dục, các dịch vụ chăm sóc, những ứng phó trong tương lai, đặc biệt là những thông tin cập nhật về trẻ tự kỷ hiện hành. Qua tư vấn giúp cho các phụ huynh có tâm lý thoải mái, chấp nhận tình trạng bệnh của trẻ, giúp họ lựa chon các dịch vụ và phương pháp trị liệu thích hợp.

14. Trò chơi trị liệu
Chơi là một hoạt động chủ yếu trong phát triển nhân cách của trẻ em, nếu trẻ thiếu hoạt động chơi hoặc hoạt động chơi không diễn ra đúng theo quy luật phát triển của trẻ, có thể gây ra sự phát triển bất thường trong đời sống tâm lý. Chơi giúp phát triển nhận thức, hoàn thiện các cơ quan cảm giác, hình thành các quan hệ xã hội…Trẻ tự kỷ cũng như những trẻ bình thường khác đều rất cẩn các hoạt động chơi.

15. Phương pháp cắt khúc thời gian
Phương pháp này trẻ sẽ được tiếp cận thực tế những đồ vật và hoạt động thực tế đời sống hằng ngày. Người tiến hành phương pháp này là những người nuôi dạy và chăm sóc bé. Từng chi tiết của công việc hướng dẫn được tiến hành trực tiếp trong môi trường sinh hoạt hằng ngày. Vật liệu cho hướng dẫn chính là đồ vật sinh hoạt của gia đình hay một cơ sở chăm chữa trẻ tự kỷ. Người hướng dẫn sẽ phải chia cắt thời gian, cùng những hoạt động sinh hoạt hằng ngày cho phù hợp với tính cách và khả năng từng trẻ. Chia cắt thời gian và chia cắt từng hoạt động chính là đặc trưng cơ bản của phương pháp này.

16. Computer
Chơi trên máy vi tính là sở trường của trẻ tự kỷ, có thể trẻ tự kỷ không thích nhiều thứ trong cuộc sống nhưng hầu hết trẻ tự kỷ đều thích máy vi tính. Thông qua những kích thích hình ảnh, âm thanh, màu sặc, kết câu…nhằm thu hút sự tập trung chú ý.
Thông thường, qua máy vi tính kích thích trẻ học tập trên cơ sở những phần mềm phát triển trí tuệ: học toán, học chữ, màu sắc, hình khối, rèn luyện trí nhớ, tưởng tượng, phản xạ, ứng phó các tình huống…nhằm cải thiện khả năng nhận thức của trẻ.

17. Phương pháp ABA:
ABA là ba chữ viết tắt: Applied Behaviour Analysis (Ứng dụng phân tích hành vi). Đây là phương pháp được quan tâm nhiều nhất trong trị liệu trẻ tự kỷ. Nó là chương trình ứng dụng nhằm cải thiện nhiều mặt của trẻ tự kỷ: nhận thức, quan hệ xã hội, ngôn ngữ, tự phục vụ… Những mặt này của trẻ tự kỷ sẽ được thăm khám, quan sát rất kỹ lưỡng; trên cơ sở đó nhà hành vi xây dựng chiến lược trị liệu cho riêng từng trẻ (phương pháp này không thể áp dụng cho nhiều trẻ cùng một lúc), tiến hành chia nhỏ những phân tích, những hành vi mà trẻ cần thực hiện trong chương trình; hành vi sẽ được chia nhỏ để dễ thực hiện nhất. Sự khuyến khích động viên trẻ hợp tác là một điều rất quan trọng của phương pháp; từng trẻ khác nhau sẽ có những đam mê và sở thích khác nhau; nhà hành vi nên hiểu rất rõ điều này để xây dựng kế hoạch khuyến khích cho phù hợp. Đồng thời chương trình này cũng nhấn mạnh việc loại bỏ những hành vi tiêu cực và thay thế bằng những hành vi tích cực, giúp trẻ có ứng xử phù hợp với cuộc sống.

18. Phương pháp PECS
PECS được viết tắt bởi bốn chữ trong tiếng Anh là: Picture Exchange Communication System (Hệ thống giao tiếp trao đổi hình ảnh). Hệ thống giao tiếp trao đổi hình ảnh là một công cụ hết sức quan trọng trong việc can thiệp chứng tự kỷ. Trong PECS, ngôn ngữ lời nói được thay thế bằng việc sử dụng thẻ hình cho giao tiếp. Khi trẻ tự kỷ chưa có ngôn ngữ hoặc ngôn ngữ bị hạn chế, hình ảnh sẽ giúp trẻ yêu cầu người khác và thực hiện yêu cầu của người khác. Hình ảnh lúc này là trung gian để chuyển tải thông tin diễn ra mối quan hệ tương tác giữa trẻ tự kỷ và người lớn. Theo các chuyên gia về phương pháp này thì tình trạng giao tiếp của trẻ khá lên rất nhiều khi sử dụng phương pháp PECS. Đây được coi là phương pháp hỗ trợ cho ngôn ngữ trong giao tiếp và góp phần hình thành ngôn ngữ cho trẻ tự kỷ.

19. Phương pháp TEACCH
TEACCH là chữ viết tắt của Treatment Education Autism Children Communication Handicape. TEACCH là phương pháp giáo dục và dạy dỗ dành cho trẻ em tự bế và những người có rối loạn trong việc diễn tả tư tưởng tình cảm và tạo quan hệ tiếp xúc qua lại với người khác. Những lĩnh vực mà TEACCH quan tâm khi tiến hành can thiệp trẻ tự kỷ: trẻ tự kỷ có khó khăn gì? Ý nghĩa của những khó khăn là gì? Cách thức, phương pháp, dụng cụ can thiệp gồm có những gì? Mục đích, mục tiêu trong từng phần và suốt quá trình là gì? Ưu tiên những hoạt động nào khi tiến hành trị liệu. Mục tiêu của từng ngày và kế hoạch của những ngày tiếp theo là gì? Các phần mà TEACCH quan tâm trong dạy trẻ tự kỷ là bắt chước, nhận thức, vận động thô, vận động tinh, phối hợp mắt và tay, kỹ năng hiểu biết, kỹ năng ngôn ngữ, kỹ năng tự lập, kỹ năng xã hội.

20. Phương pháp FLOORTIME
Floortime áp dụng ngay trong cuộc sống bình thường của trẻ, người hướng dẫn ứng phó linh hoạt các diễn biến xảy ra trong mối quan hệ hiện tại, thúc đẩy trẻ tham gia tích cực vào các hoạt động trị liệu.
Floortime nhận ra rằng mỗi đứa trẻ có một khó khăn duy nhất liên quan tới nó, bởi vậy cho nên công viêc can thiệp cũng phải duy nhất. Tiếp cận Floortime tập trung vào việc giúp đỡ trẻ làm chủ các kỹ năng quan hệ, liên lạc và suy nghĩ.
21. Phương pháp COMPC (communication picture)
Là phương pháp xuất hiện lần đầu tiên ở Úc, nhằm dạy trẻ cách thức giao tiếp thông qua hình ảnh bằng cách chụp những hình ảnh trẻ quan tâm thích thú, hình ảnh quen thuộc, phong cảnh ở nơi trẻ đã đến. Với những hình ảnh trẻ thích và những đồ vật quen thuộc sẽ giúp trẻ học tốt hơn.
22. Phương pháp PCS (picture communication symbols)
Đây là phương pháp do Johonson, người Mỹ đưa ra năm 1981 với mục đích dạy trẻ hiểu những ký hiệu giao tiếp thường gặp trong cuộc sống hàng ngày. Phương pháp này chủ yếu áp dụng cho những trẻ tự kỷ nặng, không có khả năng nói.
23. …..

*******************
Trên đây là những phương pháp khá tiêu biểu đã và đang được áp dụng đối với trẻ tự kỷ. Khi mà khoa học chưa tìm ra nguyên nhân dẫn đến tự kỷ của trẻ em và đồng thời cũng chưa thể đưa ra được phương pháp trị liệu duy nhất thì các phương pháp trên vẫn được coi là phương pháp tổng hợp khi tiến hành can thiệp cho trẻ tự kỷ. Mỗi một phương pháp ở trên xét về một phương diện nào đó đều được phát hiện là có hữu ích. Mỗi một trẻ tự kỷ khác nhau sẽ được tiến hành các phương pháp khác nhau. Vấn đề ở chỗ là người hướng dẫn trị liệu cho từng trẻ cụ thể sẽ áp dụng phương pháp nào? Phương pháp nào trước, phương pháp nào sau, kết hợp sự hỗ trợ của các phương pháp với nhau như thế nào? Do đó việc xây dựng chiến lược trị liệu cho trẻ tự kỷ là một điều quan trọng bậc nhất. Điều này tùy thuộc vào gia đình và chuyên gia trị liệu.

TS: Ngô Xuân Điêp