Thứ Hai, 5 tháng 9, 2011








CÁC LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN CAN THIỆP CHO TRẺ TỰ KỶ







Theo các quan sát nghiên cứu ghi nhận, sự phát triển nhận thức của trẻ liên quan đến chức năng cảm giác vận động, nếu khả năng vận động của trẻ gặp vấn đề khó khăn sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển nhận thức. Hầu hết sự vận động của trẻ em hướng theo một quy luật nhất định. Quy luật “từ đầu đến chân” và “từ trong ra ngoài”, ví dụ: trẻ có thể biết bú trước khi trẻ có thể cầm, nắm. Biết nâng đầu trước khi biết ngồi, biết ngồi trước khi biết đứng, trẻ có thể biết sử dụng bàn tay trước khi biết điều khiển chân. Trên đây là nền tảng sinh học trong phát triển thể chất và sự thành thục chức năng vận động của trẻ em nói chung. Nếu chức năng sinh học phát triển không bình thường hoặc chậm phát triển sẽ ảnh hưởng đến trí tuệ của trẻ. Sau đây là một số lý thuyết về phát triển nhận thức.



Lý thuyết “Điều kiện hóa cổ điển”



Khoảng cuối thế kỷ 19, tâm lý học ra khỏi viễn cảnh chủ quan của thuyết nội quan, hướng về một phương pháp khách quan hơn. Cách tiếp cận khoa học này đối với tâm lý học có nguồn gốc liên quan đến công việc của Ivan Petrovich Pavlov (1849-1936). Pavlov phát triển một lý thuyết lớn liên quan đến học tập được gọi là “Điều kiện hóa cổ điển”. Theo lý thuyết này, “những hành vi nhất định có thể được tạo ra bởi kích thích trung tính đơn giản bởi sự liên kết học tập của nó với một kích thích mạnh hơn”. Nguyên lý điều kiện hóa này có thể ứng dụng được với nhiều loại hành vi nhận thức của con người. Quan điểm của Pavlop cho thấy nhận thức là một sự liên kết giữa hai kích thích theo cơ chế “phản xạ có điều kiện”, đây là loại phản xạ con người học được trong cuộc sống.



Lý thuyết về luật luyện tập và luật hiệu quả



Nghiên cứu về tính bền vững của quá trình nhận thức, Edward Lee Thorndike (1874- 1949), nhà tâm lý học Mỹ đã phát minh hai lý thuyết là “Luật luyện tập” và “Luật hiệu quả” áp dụng trong học tập và phát triển nhận thức của con người. Luật luyện tập gồm hai phần: luật sử dụng và luật không sử dụng. Luật sử dụng nói lên sự liên tưởng càng được thực hành, nó càng trở nên mạnh hơn. Luật không sử dụng cho rằng liên tưởng càng không được sử dụng lâu bao nhiêu, nó càng trở nên yếu đi bấy nhiêu. Luật hiệu quả nói rằng nếu một liên tưởng kéo theo sau một “tình trạng thỏa mãn” nó sẽ trở nên mạnh hơn và nếu theo sau “tình trạng khó chịu” sẽ trở nên yếu đi.



Khoa học ngày nay đều thừa nhận giá trị của “Luật luyện tập” và “Luật hiệu quả”. Nghĩa là nhận thức của con người càng sâu sắc khi thường xuyên được tái hiện và luyện tập. Ngược lại, con người có thể sẽ quên đi những tri thức mà con người đã nhận thức được trước đây nếu tri thức đó không được luyện tập hay tái hiện thường xuyên. Nhận thức đi kèm với cảm giác thoải mái dễ chịu, thì sự ghi nhớ sẽ được lưu giữ lâu hơn cảm giác khó chịu. Trong phần nghiên cứu tác động, chúng tôi sử dụng hai quy luật này vào củng cố hành vi mong muốn và xóa bỏ hành vi không mong muốn khi trị liệu cho nâng cao nhận thức TTK.



Quan điểm điều kiện hóa của Skinner



Cũng liên quan đến phát triển nhận thức, khác với “điều kiện hóa cổ điển”, Burrhus Frederic Skinner (1904-1990) cho thấy một vai trò tích cực hơn, với “Điều kiện hóa tạo tác” khi trẻ được hoạt động (thể hiện hành vi) trong môi trường của chúng, đồng thời quan điểm của Skinner cho phép tính linh hoạt hơn và khả năng tự tạo ra mô hình hành vi khi đã trải qua nhiều quá trình lựa chọn.



Đây là những quan điểm khá tiến bộ khi bắt đầu đề cập đến những yếu tố chủ động trong tâm lý con người. Đề tài nghiên cứu này chủ trương áp dụng lý thuyết của Skinner vào can thiệp trị liệu nhằm nâng cao khả năng nhận thức cho TTK. Lý thuyết này là nền tảng cơ bản cho phương pháp ABA trong trị liệu TTK.






Lý thuyết học tập xã hội



Cũng bàn về phát triển nhận thức thông qua học tập, Albert Bandura (1925), đã đề xuất “Lý thuyết học tập xã hội”. Cách tiếp cận của Bandura đầu tiên có tên hành vi xã hội, rồi đến lý thuyết nhận thức xã hội, và cuối cùng là lý thuyết học tập xã hội. Bandura cho rằng, trẻ bắt chước hành động của người khác dựa trên lĩnh hội sự quan sát. Trong cuộc sống người lớn cung cấp cho trẻ em những mô hình hoạt động và sự học tập thông qua bắt chước là điều vô cùng bình thường trong tất cả các lĩnh vực xã hội và phát triển nhận thức.



Khác với các nhà hành vi trước đó, Bandura đã cho thấy sự hiện diện thô sơ của môi trường xã hội trong lý thuyết học tập xã hội của ông. Lý thuyết học tập xã hội sẽ là nền tảng cơ bản cho hình thức trị liệu gia đình.



Chủ nghĩa hành vi từ khi xuất hiện đến nay đã có rất nhiều sự thay đổi theo chiều hướng ngày càng hoàn thiện hơn. Chủ nghĩa hành vi ngày nay không chỉ bàn đến hành vi đơn thuần, mà các nhà hành vi đã nghiên cứu sâu về hành vi nhận thức. Vì vậy, với mục đích nâng cao khả năng nhận thức cho TTK, chúng tôi sử dụng lý thuyết hành vi vào can thiệp trị liệu cho trẻ.



Quan điểm hình thành hành động trí tuệ của Galpêrin



Trên cơ sở lý luận và thực tiễn tâm lý học Mác xit, P.Ia Galpêrin đã đưa ra lý thuyết hình thành hành động trí tuệ. Quan điểm lý thuyết của Galpêrin là: “Luận điểm chủ yếu của giả thuyết này là coi hoạt động tâm lý là kết quả của việc chuyển các hành động vật chất bên ngoài vào lĩnh vực phản ánh- vào lĩnh vực tri giác, biểu tượng và khái niệm. Quá trình di chuyển ấy tiến hành theo một số bước; ở mỗi bước có sự phản ánh mới, một lần tái hiện hành động và sự cải tổ một cách có hệ thống hành động đó” [35, tr.618]. Ông đã tiến hành phân tích các cấu trúc của hành động, xác lập và mô tả các bước hình thành hành động trí tuệ, nghiên cứu các phương pháp định hướng việc hình thành hành động trí tuệ cho trẻ em trong học tập.





Các bước hình thành hành động trí tuệ



Bước 1: Lập cơ sở định hướng của hành động. Lập cơ sở định hướng là nhiệm vụ chủ yếu trong quá trình hình thành hành động (“gây một biểu tượng sơ bộ về việc làm”). Khi thực hiện hành động, cơ sở định hướng này quy định quá trình định hướng vào việc làm và như vậy nó là phần quan trọng nhất trong cơ chế tâm lý học của hành động. Có ba loại định hướng chủ yếu cho việc làm. Cơ sở định hướng thứ nhất: chỉ có mẫu vật, hành động và sản phẩm của nó. Cách này, không hề cho một lời chỉ dẫn, để thực hiện đúng đắn hành động đó như thế nào, học sinh tự “mày mò” tìm lấy, xác lập lấy. Cơ sở định hướng này là quá trình hình thành hành động diễn ra theo cách “thử và sai”. Cơ sở định hướng thứ hai: có mẫu vật, hành động, sản phẩm và sự chỉ dẫn để làm đúng hành động đó với vật liệu mới. Mỗi lần lặp lại cùng một hành động, giáo viên chỉ ra các điểm tựa, các điều kiện để làm đúng, sau đó học sinh tự mình tái hiện lại chúng. Cách này học sinh có thể biết cách phân tích công việc theo góc độ hành động sắp làm, và điều đó làm cho hành động được bền vững hơn, khi các điều kiện thay đổi học sinh chuyển được sang việc làm mới. Cơ sở định hướng thứ ba: có các đặc điểm là phân tích việc làm mới được xếp lên hàng đầu. Sự phân tích cho phép lấy ra các điểm tựa, các điều kiện để thực hiện đúng việc làm, sau đó, theo những chỉ dẫn ấy mà tiến hành hành động phù hợp với việc làm được giao. Có thể nói, cách thứ ba là cách dạy trẻ phân tích để tự tìm ra các điểm tựa, các điều kiện để thực hiện.



Bước 2: Hành động với đồ vật hay vật chất hóa. Cơ sở định hướng của hành động vẫn chỉ là một hệ thống các chỉ dẫn cách thực hiện hành động, chứ không phải chính hành động. Do đó, đây là bước hành động với vật thật hay các biến thể của nó như hình vẽ, ký hiệu, sơ đồ, mô hình, vật mẫu, chữ viết,… của vật chất đó. Galperin cho rằng, bước này là nguồn gốc của mọi hành động trí tuệ trọn vẹn. Nội dung của nó là chủ thể dùng tay để triển khai hành động, khái quát và rút gọn. Khai triển một hành động có nghĩa là chỉ ra tất cả các thao tác của nó trong mối quan hệ qua lại của chúng. Như vậy cần phải phân chia hành động thành các thao tác đến mức hết cỡ. Khái quát một hành động từ trong các thuộc tính đa dạng của đối tượng của nó lấy ra đúng chính những thuộc tính cần cho việc thực hiện hành động đó. Rút gọn là thao tác hóa những điều khái quát được. Bước này làm cho hành động nhanh lên.



Bước 3: Hành động nói to không dùng đồ vật. ngôn ngữ trở thành đối tượng của hành động. Ở đây ngôn ngữ không chỉ đơn thuần là hệ thống ký hiệu chứa nghĩa theo các qui tắc thống nhất, mà còn là thực tại chứa đựng toàn bộ hành động, thao tác và vật liệu.



Bước 4: Hành động với lời nói thầm. Bước này có thể xác định từ lúc hành động nói to chuyển vào bên trong, cho đến khi nói thầm thành thạo. Bản chất của bước này chính là cấu tạo lại ngôn ngữ. Biến các hình ảnh, âm thanh của từ thành biểu tượng.
Bước 5: Hành động rút gọn với lời nói bên trong. Ngôn ngữ không còn hướng ra bên ngoài, do đó ngôn ngữ không còn giữ nguyên quy tắc âm ngữ và ngữ pháp.Trong hình thái này, nội dung vật chất của hành động được biểu thị trong nghĩa của từ, còn âm thanh của từ được rút gọn tới mức tối đa. Ngôn ngữ hoàn toàn là ngôn ngữ bên trong.



Qua lý thuyết của Galperin, chúng ta thấy con đường hình thành hoạt động trí tuệ của con người vô cùng phức tạp. Mô hình 5 bước này đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong nghiên cứu tâm lý con người, đồng thời đây cũng là con đường phát triển nhận thức của mỗi cá nhân. Chúng tôi vận dụng lý thuyết của của Galperin vào phần tác động can thiệp và lý giải quá trình phát triển nhận thức của TTK.



Thuyết văn hóa của Vưgotxky



Nhà tâm lý học Nga Lev Semenovich Vưgotxky (1896-1934), là người đầu tiên nhận ra tầm quan trọng của người lớn trong môi trường nhận thức trẻ em. Đối với ông, phát triển trí tuệ chịu ảnh hưởng bởi mối quan hệ mô phạm (dựa trên giao tiếp dạy học) sẽ làm cho cá nhân tiến bộ hơn. Một khía cạnh đáng chú ý trong quan điểm của ông khi khẳng định khả năng phát triển cao của trí tuệ trước hết được thấy và ứng dụng thành thạo trong tương tác xã hội, sau đó được tiếp thu và sở hữu như quá trình suy nghĩ của cá nhân. Ví dụ, ngôn ngữ được sử dụng trong xã hội tới mức độ khá về khả năng trước khi nó được tiếp nhận, tổ chức lại quá trình suy nghĩ. Như vậy, điểm chính trong lý thuyết của Vưgotxky là tương tác xã hội là vai trò chủ yếu trong phát triển nhận thức. Ông chỉ rõ “có một khoảng cách lớn giữa những gì trẻ em biết và những gì trẻ em được dạy. Tại một giai đoạn phát triển của trẻ có một mức độ nhất định của sự hiểu biết, một cực điểm nhất thời, ở cao hơn điểm này là vùng phát triển gần (the zone of proximal development). Vùng này có thể được xem như những vấn đề và kiến thức mà nó là một trở ngại nhỏ cho trẻ tự hiểu. Tuy nhiên, nó có thể được khám phá và được hiểu với sự giúp đỡ của người lớn. Như vậy người lớn có thể hướng dẫn trẻ hiểu vững vàng hơn những kiến thức phức tạp có liên quan”.



Quan điểm của Vưgotxky thừa nhận văn hóa, xã hội hay sự tương tác của người lớn với trẻ là môi trường lý tưởng cho các hoạt động nhận thức. Trong quá trình nhận thức, trẻ cần sự hướng dẫn của người khác để tiến lên một mức độ nhận thức cao hơn. Hầu hết TTK gặp khó khăn về giao tiếp, cũng như khó khăn trong khả năng tự học tập.





Phát triển nhận thức theo quan điểm của Piaget



Quan điểm của J Piaget chia sự phát triển nhận thức của trẻ thành bốn giai đoạn chính: Giai đoạn 1, cảm giác - vận động (0 đến 2 tuổi), trẻ sơ sinh sử dụng khả năng cảm giác và vận động để thăm dò và đạt được một số hiểu biết cơ bản về môi trường. Khi mới được sinh ra, trẻ chỉ có những phản xạ bẩm sinh để gắn kết với thế giới. Cuối thời kỳ cảm giác vận động, trẻ có được khả năng phối hợp những cảm giác vận động phức tạp. Giai đoạn 2: Tiền thao tác ( từ 2 đến 7 tuổi): Trẻ sử dụng biểu trưng (các hình ảnh và ngôn ngữ) để diễn tả khía cạnh khác nhau của môi trường. Trẻ phản ứng lại các đối tượng và sự kiện theo cách nghĩ của mình. Suy nghĩ của trẻ lúc này mang tính chất “mình là trung tâm”, nghĩa là trẻ nghĩ rằng, mọi người đều nhìn nhận thế giới giống như cách nhìn của chúng. Giai đoạn 3: Thao tác cụ thể (từ 7 đến 11 tuổi): là giai đoạn trẻ sử dụng các thao tác nhận thức (những hành động tinh thần, hay những thành phần của suy nghĩ logic) trên các vật thật. Giai đoạn 4: thao tác hình thức (từ 11 tuổi đến lớn): Đây là hình thức thao tác cho phép trẻ tổ chức ý nghĩ theo một cách thức nhất định, trẻ có thể kiểm tra những hành động suy nghĩ của mình và người khác. Lúc này suy nghĩ của trẻ đã mang tính trừu tượng và hệ thống.



Quan điểm nhận thức của Piaget cho ta một hướng nhìn toàn diện về quá trình phát triển nhận thức của trẻ em từ giai đoạn sơ sinh đến tuổi trưởng thành thông qua các hoạt động nhận thức như cảm giác - vận động, nhận thức các hình ảnh biểu trưng, thực hiện thao tác trí tuệ cụ thể và các thao tác trí tuệ mang tính hình thức. Lý thuyết này chủ yếu sử dụng cho lý giải sự phát triển nhận thức của TTK.







Ts. Ngô Xuân Điệp