Phương pháp can thiệp hành vi cho trẻ tự
kỷ-
từ lý luận đến thực tiễn
TS. Nguyễn
Thị Vân Thanh
Trung tâm giám định pháp y tâm thần TPHCM
(152-154 Hồng Bàng, phường 12, quận 5,
TPHCM)
Đặt vấn đề
Can
thiệp hành vi cho trẻ tự kỷ được các nhà tâm lý trị liệu, giáo dục trị liệu rất
quan tâm. Bởi lẽ, chỉ khi nào hành vi của trẻ tự kỷ có được tính hợp lý với
hoàn cảnh mới tạo điều kiện cho các tác động của tâm lý trị liệu và giáo dục
trị liệu có hiệu quả.
Tuy
nhiên, can thiệp hành vi cho trẻ tự kỷ là một vấn đề rất rộng lớn. Tác giả bài
viết này không có tham vọng “với tới” hết các vấn đề hành vi của trẻ tự kỷ.
Thay vào đó, tác giả chỉ bàn luận về một số khía cạnh của can thiệp hành vi và
thực tiễn can thiệp hành vi cho trẻ tự kỷ trong lĩnh vực giáo dục học đặc biệt.
Hành vi và hành vi của trẻ tự kỷ
Trong
tâm lý học, hành vi được sử dụng theo nhiều cách khá nhau. Hành vi thường được
sử dụng với ý nghĩa là hành động. Nhưng nó có thể đề cập đến trạng thái cảm xúc
và quá trình tư duy.
Hành
vi là các hành động và phong cách do các sinh vật, hệ thống hoặc các thực thể
nhân tạo tạo ra trong mối quan hệ với môi trường khác, hệ thống khác, sinh vật
và môi trường vật lý xung quanh. Với ý nghĩa đó, khi có một kích thích nào đó
tác động từ bên ngoài tác động vào cá nhân, cá nhân sẽ trả lời bằng một phản
ứng nhất định nào đó.
Mô
hình bộc lộ hành vi được mô tả như sau:

Như
vậy, từ lúc kích thích đến hành động, cá nhân còn phải trải qua một quá trình
tâm lý phức tạp ở bên trong. Quá trình tâm lý này ở các cá nhân khác nhau là
khác nhau. Vì vậy, kích thích có thể giống nhau, nhưng trả lời của cá nhân khác
nhau là khác nhau. Quá trình tâm lý của cá nhân cũng thay đổi theo thời gian,
vì vậy, có thể cùng một kích thích nhưng ở những thời điểm khác nhau, hành vi
trả lời cũng có thể khác nhau.
Ở
những trẻ không có rối loạn, quá trình tâm lý diễn ra theo quy luật bình thường
(quy luật này được nhiều người biết), vì vậy, dựa vào các kích thích ở đầu vào,
ta có thể đoán biết được đáp ứng trả lời ở đầu ra. Tuy nhiên, đối với những trẻ
có vấn đề nói chung và trẻ tự kỷ nói riêng, quá trình tâm lý của trẻ không theo
quy luật bình thường, trẻ không suy xét khi hành động và phản ứng cũng quá thái
vì vậy rất khó đoán biết đáp ứng hành vi đầu ra của trẻ. Đó là lý do khiến cho
nhiều trẻ tự kỷ bị người lớn ngược đãi vì những bộc lộ hành vi khác người của
mình.
Hành vi trong can thiệp hành vi cho trẻ tự kỷ
thường hàm ý là những hành vi quan sát được, những hành vi này là những hành vi
có vấn đề, gây ảnh hưởng lớn đến quá trình dạy học, quá trình tương tác với
những người khác trong gia đình, trong trường học và trong xã hội. Đó thường là
những hành vi ít có ý nghĩa xã hội, tấn công người khác hoặc xâm hại bản thân,
cản trở hoặc ngăn chặn quá trình tương tác với người khác và/hoặc quá trình học
tập.
Từ
lý luận về phương pháp can thiệp hành vi cho trẻ tự kỷ
Với
cách thức hiểu như vậy, để can thiệp hành vi cho trẻ tự kỷ, các phương pháp can
thiệp phải đi vào 2 hướng: (1) cải thiện các kích thích đầu vào; (2) tìm hiểu
và đi theo các quá trình tâm lý bên trong.
Như
vậy, để can thiệp hành vi cho trẻ tự kỷ có hiệu quả, người ta phải xác định
được bản chất hành vi của trẻ, phải hiểu cái (R) trong mô hình thực chất bị gây
ra bởi những yếu tố nào: do kích thích hay do quá trình tâm lý bên trong hay cả
hai yếu tố. Muốn vậy, việc đánh giá sau đó đi đến phân tích hành vi của trẻ
đóng một vai trò rất quan trọng. Khi phân tích hành vi của trẻ tự kỷ, người ta
tìm hiểu được trẻ đó nghĩ gì, làm gì, để hiểu, giải thích, mô tả và dự đoán
hành vi của trẻ.
Việc
phân tích hành vi của trẻ bao gồm các bước:
-
Xác định hành vi:
cân nhắc về mức độ và phạm vi, những ảnh hưởng của hành vi với trẻ, những phản
ứng và những sự việc xảy ra trong môi trường xung quanh trẻ. Để can thiệp có
hiệu quả, các hành vi này phải là những hành vi quan sát được và đo lường được.
Ví dụ, ta có thể đếm được số lần trẻ đứng lên ngồi xuống trong lớp học, đo được
thời gian trẻ có thể ngồi yên và tập trung vào bài học.
-
Quan sát hành vi
đang xảy ra: bối cảnh xảy ra hành vi, các nhân vật, cách cư xử, ý thích và
sự quan tâm của trẻ đến vật và sự việc xảy ra trước đó. Cần tìm hiểu, quan sát
trực tiếp và cân nhắc cẩn thận xem đâu là yếu tố trực tiếp ảnh hưởng đến hành
vi của trẻ.
-
Ghi chép những sự
việc đó: những thông tin vừa quan sát và thu thập được cần phải ghi chép để
phân tích.
-
Phân tích:
những dữ liệu ghi chép được cần được phân tích một cách kỹ lưỡng và lưu trữ cẩn
thận.
-
Đánh giá: cần
cân nhắc về ý nghĩa của mỗi thông tin thu nhận được và mối liên hệ giữa chúng.
-
Nêu giả thuyết
tìm thử thách. Dựa trên những thông tin thu được, các giả thuyết về nguyên
nhân hành vi có thể là một trong số các trường hợp sau:
+ Trẻ trốn tránh nhiệm vụ.
+ Trẻ thực hiện hành vi để thu hút sự chú ý của người xung quanh.
+ Trẻ muốn thể hiện quyền kiểm soát tình huống.
+ Trẻ muốn giao tiếp.
+ Trẻ căng thẳng hoặc chán nản.
+ Trẻ đang tự kích động hoặc giác quan bị kích thích.
-
Khái quát thành
khái niệm: nhằm tìm hiểu xem bản chất hành vi của trẻ, nguyên nhân và những
ảnh hưởng môi trường xã hội đến hành vi của trẻ.
Thực tiễn can thiệp hành vi cho trẻ tự kỷ
Hai
loại phương pháp xử lý hành vi được giới thiệu trong khuôn khổ dạy học là: phương pháp xử lý hành vi nổi cộm trong
giờ học và phương pháp xử lý các hành vi bẻ gãy các hoạt động giảng dạy và xung
khắc việc học một hành vi mới.
Đối
với các hành vi nổi cộm trong quá trình giảng dạy, ta cần xử lý hành vi để quá
trình dạy học vẫn tiếp tục được sau đó. Còn đối với hành vi bẻ gãy hoạt động
giảng dạy và xung khắc với việc học một hành vi mới, ta cần làm chủ các hành vi
này trước khi tiến hành hoạt động giảng dạy.
Thực
tế, theo quan sát của tôi, nhiều giáo viên ở các trường chuyên biệt đã phân
biệt để xử lý rất tốt các kiểu hành vi như thế.
Chẳng
hạn, với một trẻ thường có thói quen đập đầu. Trẻ đập đầu vào bất cứ chỗ nào ở
gần mình. Giáo viên chuẩn bị những chiếc gối ở xung quanh. Khi trẻ bắt đầu đập
đầu thì để gối và hướng trẻ đập. Thường thì trẻ sẽ đập đầu cho hết cơn thì
thôi. Vì thế, khi trẻ bắt đầu đập đầu, giáo viên tạm thời dừng giờ học. Đến lúc
trẻ đập đầu xong thì lại tiếp tục giờ dạy.
Một
trường hợp khác, cô đang giảng bài thì trẻ tát vào mặt cô, tấn công cô. Cô giáo
xử lý bằng cách nắm lấy tay trẻ, xoa lưng, ôm trẻ. Khoảng 5p sau, trẻ đã yên thì
tiếp tục tiến hành giảng dạy.
Có
một số trường hợp, giáo viên tưởng mình đã dập tắt được hành vi xấu của trẻ
nhưng thực tế lại làm xuất hiện hành vi xấu khác.
Ví
dụ, khi trẻ tự cào cấu, tát vào mặt mình, cô giáo đánh vào tay trẻ. Đôi lúc sử
dụng đánh vào tay trẻ có thể làm trẻ không tự tát vào mặt mình nữa. Hoặc mỗi
khi trẻ có thói quen đập đầu vào chỗ gần mình, cô la trẻ, đánh trẻ. Biện pháp
này cũng có thể có lúc có hiệu quả. Tuy nhiên, hành vi mới có thể chỉ mới được
dập tắt một phần thì trẻ lại xuất hiện hành vi mới: cô giáo và học sinh đang
ngồi nói chuyện vui vẻ với nhau thì học sinh (là trẻ tự kỷ) bất ngờ chọc ngón
tay vào mắt cô giáo thật mạnh. Hành vi
này được nhìn nhận như là sự “trả thù” cho biện pháp bạo lực của cô giáo những
lúc trước. Và rằng, có thể giáo viên chưa chú trọng việc phân tích tìm hiểu
những nguyên nhân sâu xa đằng sau hành vi của trẻ.
Thay cho lời kết
Có
thể nhận xét như sau: nếu hành vi của trẻ tự kỷ được xử lý bằng những biện pháp
mang tính nâng đỡ, dịu dàng thì hành vi xấu của trẻ có thể giảm hoặc tắt. Ngược
lại, những hành vi của trẻ tự kỷ được xử lý bằng những biện pháp bạo lực thì
hành vi đó có thể được dập tắt ở chừng mực nào đó. Tuy nhiên, điều đó lại làm
xuất hiện những hành vi xấu khác. Thêm vào đó, cần tìm hiểu và phân tích hành
vi của trẻ tự kỷ thì việc xử lý hành vi mới hiệu quả và triệt để tận gốc.
Tài liệu tham khảo
- Hỗ trợ kiến
thức chăm sóc và giáo dục trẻ mắc hội chứng tự kỷ. Nhà xuất bản Đại
học Sư phạm, 2010.
- Những hoạt động
dạy trẻ tự kỷ. Bệnh viện Nhi đồng 1 (Sách lưu hành nội bộ).
- Autism and
Asperger Syndrome. Cambridge University Press, 1991.
- Autism and
Pervasive Developmental. Cambridge University Press, 2007.