TRẺ
TỰ KỶ
Theo
quan điểm mô tả lâm sàng của bảng Phân Loại Bệnh Quốc Tế (ICD-10) Vế Các
Rối Loạn Tâm Thần Và Hành Vi, Tự kỷ là một hội chứng (gồm nhiều triệu
chứng khác nhau) nằm trong mục “F84” với tên gọi “rối loạn phát triển
lan toả”( Pervasive
Developmental Disorders), là một nhóm các rối loạn đặc
trưng bởi các bất thường về hành vi, chất luợng giao tiếp và quan hệ
xã hội.
Rối
loạn Phát Triển Lan Tỏa (Pervasive
Developmental Disorders) là các rối loạn được đặc trưng bởi
những bất thường về chất lượng trong các mối quan hệ xã hội và phương thức giao
tiếp cũng như có một số sở thích và hành vi bị thu hẹp, định hình lặp đi lặp
lại. Các bất thường về chất lượng này hình thành một nét lan tỏa mà người ta tìm
thấy trong hoạt động của chủ thể ở mọi hoàn cảnh với nhiều mức độ khác nhau.
Trong đa số các trường hợp, sự phát triển không bình thường ngay từ tuổi trẻ
nhỏ và có một vài trường hợp các trạng thái bệnh lý này thấy rõ trong 5 năm đầu
cuộc đới (Trang 246) 1.
Theo
bảng Phân Loại Quốc Tế Bệnh Tật, Rối Loạn Phát Triển Lan Tỏa gồm những
tiểu mục sau: Tính tự kỷ ở trẻ em (F84.0), Tự kỷ không điển hình
(F84.1), Hội chứng Rett (F84.2), Rối loạn lan tỏa tan rã khác ở trẻ em
(F84.3), Rối loạn tăng hoạt động kết hợp với chậm phát triển tâm
thần và các động tác định hình (F84.4), Hội chứng Asperger (F84.5),
Rối loạn phát triển lan tỏa khác (F84.8), Rối loạn phát triển lan tỏa không đặc
hiệu (F84.9) (Trang 277-229)2.
Cũng
nghiên cứu vế bệnh tự kỷ, theo cuốn Sổ Tay Chẩn Đoán và Thống Kê Những Rối Loạn Tâm Thần (DSM-
IV)
của Hiệp Hội Các Nhà Tâm Thần Hoa Kỳ: Rối Loạn Phát Triển Lan Tỏa (Pervasive Developmental Disorders)
gồm năm thể loại rối loạn phát triển khác nhau: Rối loạn tự kỷ (Autistic
disorder), Rối loạn Rett (Rett’s disorder), Rối loạn tan rã thới ấu thơ
(childhood disintegrative disorder), Rối loạn Asperger (Asperger’s disorder), Rối
loạn phát triển lan tỏa không đặc hiệu (pervasive developmental disorder not
otherwise specified) (Trang 59) 3.
Điểm
tương đồng của hai hệ thống chẩn đoán
ICD-10
1.Tính Tự kỷ ở trẻ em
2.Tự kỷ không điển hình
3.Hội chứng Rett
4.Rối loạn tan rã thời thơ ấu khác
5.Rối loạn tăng hoạt động với chậm phát
triển tâm thần và các động tác định hình
6.Hội chứng Asperger
7. Rối loạn phát triển lan tỏa khác
8. Rối loạn phát triển lan tỏa không đặc
hiệu
|
DSM-IV
1.Rối loạn tự kỷ
2.Rối loạn phát triển lan tỏa không đặc hiệu (PDD-NOS)
3.Rối loạn Rett
4. Rối loạn tan rã thời thơ ấu
5.Không có phân loại tương ứng với động tác định hình
6.Rối loạn Asperger
7. Rối loạn phát triển lan tỏa không đặc hiệu
8. Rối loạn phát triển lan tỏa không đặc hiệu (Trang 6)4.
|
Các bác sỹ thực hành và các nhà nghiên cứu đã
đạt được sư nhất trí trong cách đánh giá về chứng tự kỷ như phân loại chẩn đoán
và những nét đặc trưng bên trong phân loại đó (Rutter, 1996). Điều này
tạo lên tính khả thi cho việc thống nhất hai hệ thống chẩn đoán: Tài
liệu xuất bản lần thứ tư là Cuốn Sổ Tay Thống Kê và Chẩn Đoán Các
Rối Loạn Tâm Thần (DSM-IV) của Hiệp Hội Những Nhà Tâm Thần Mỹ (1994)
và Bảng Phân Loại Bệnh Quốc Tế (ICD-10) xuất bản lần
thứ 10 của Tổ Chức Y Tế Thế Giới [WHO], 1992). (Trang 5)4.
Theo
thông báo của Hiệp Hội Sức Khỏe Tâm Thần Quốc Tế: Rối loạn phổ tự kỷ (Autism
Spectrum Disorder-ASD), được hiểu như Rối loạn phát triển lan tỏa (Pervasive
Developmental Disorder-PDDs), nguyên nhân bởi sự suy giảm trầm trọng và bao phủ
sự suy nghĩ, cảm giác, ngôn ngữ và khả năng quan hệ với người khác. Những rối
loạn đó thông thường được chẩn đoán trong thời thơ ấu, gọi là rối loạn tự kỷ,
tiếp theo là Rối loạn phát triển lan tỏa không đặc hiệu và có nhiều dạng nhẹ
hơn như Hội chứng Asperger và hai rối loạn hiếm gặp khác là Hội chứng Rett và
Rối loạn tan rã thời thơ ấu (Trang )5. ( www.nimh.nih.gov/publicat/autism).
Cùng với những quan điểm trên tác giả Hamilton khái quát: Tính
tự kỷ trên thực tế là một bệnh nằm trong Rối Loạn Phát Triển Lan Tỏa, rối loạn này bao gồm Rối loạn Asperger (cũng được hiều
là hội chứng Asperger), Rett, Rối Loạn Tan Rã Thới Thơ Ấu, và PDD—NOS (Rối loạn
phát triển lan tỏa không đặc hiệu).
Không như những rối loạn khác được chẩn đoán bởi các triệu chứng cơ thể và các
test y khoa, bệnh tự kỷ được xác định khi đối
chiếu sự tương thích giữa bệnh của trẻ với các tiêu chuẩn tâm thần xác định (Trang 39) 6.
Như vậy, tính tự kỷ bao hàm nhiều hội chứng, bị quy định bởi đặc điểm bệnh lý lâm sàng và
mức độ nặng nhẹ khác nhau. Ở mỗi hội chứng có những triệu chứng
giống nhau và những triệu chứng khác nhau tiêu biểu cho từng bệnh
cảnh cụ thể. Tuy nhiên trẻ em mắc các hội chừng này đều có biểu
hiện chung là: Thiếu kỹ năng trong quan hệ giao tiếp, phát triển khác
thường về trí tuệ và nhận thức, nghèo nàn trong thể hiện cảm xúc và tình cảm, chậm
phát triển hoặc rối loạn phát triển về ngôn ngữ, kèm theo bất
thường về hành vi và ít nhiều có vấn đề cảm giác. Vì có những
điểm tương đồng như vậy nên tính tự kỷ có các tên gọi như: Rối loạn
tự kỷ, rối loạn phồ tự kỷ, rối loạn phát triển lan toả, rối loạn
tự kỷ quạt nan, rối loạn cầu vồng...tuỳ theo quan điểm sử
dụng khái niệm và cách tiếp cận của
từng tổ chức và cá nhân.
Để
nghiên cứu có tính khả thi, đề tài không nghiên cứu toàn bộ các hội
chứng nêu trên ở trẻ mà chỉ tập
trung vào hai hội chứng chính: Tính tự kỷ ở trẻ em (F84.0) và Tự kỷ
không điển hình (F84.1) và hội chứng Aspergerv (F84.5) theo bảng phân loại bệnh quốc tế ICD 10.
Do đó, khi sử dụng thuật ngữ “Tự kỷ” trong đề tài này là bao hàm cả hai hội
chứng trên.
Thuật ngữ
Autism khi chuyển ngữ sang tiếng Việt, được dịch theo ba cụm từ khác
nhau: Tự kỷ, tự tỏa, tự bế. Tuy nhiên về cơ bản chỉ là cách dịch
(cách gọi) khác nhau của bệnh Autism. Nghiên cứu này sẽ sử dụng duy nhất
một cụm từ “Tự kỷ” thông suốt đề tài thay vì các cụm từ “Tự tỏa hay “Tự bế”.
Công bố mô
tả đầu tiên về tính tự kỷ bởi Bs.Leo Kanner vào 1943. Bs . Kanner mô tả một
nhóm người trong số những cá nhân mà rất cô lập và xa cách- đó là thuật ngữ
tính tự kỷ . Tính Tự kỷ có nghĩa là " cái tôi ", và nhóm mà Kanner đã
nghiên cứu ( 11 trẻ) có vẻ đóng kín trong một thế giới nội tại – co cụm. Những
đặc trưng bổ sung đáng chú ý bởi Bs. Kanner bao gồm những thiếu hụt giao tiếp,
duy trì sự đơn điệu, những vận động khác thường, và hay gây hấn trong thời gian
vài năm đầu đời (Trang 7)7.
Tự kỷ là một rối loạn phát triển được xác định bởi một sự
phát triển không bình thường hay giảm sút biểu hiện trước 3 tuổi, và bởi một
hoạt động bất thường đặc trưng trong 3 lĩnh vực: tác động xã hội qua lại, giao
tiếp, và tác phong thu hẹp, lặp lại. Rối loạn này xuất hiện ở trẻ trai nhiều
hơn trẻ gái từ 3 đến 4 lần. (trang 247) 1
Ngoài
3 dấu hiệu trên, ngày nay người ta còn phát hiện ở trẻ tự kỷ có một số rối loạn
khác liên quan đến rối loạn sinh hoc, nhận thức, giác quan, ngôn ngữ, …và có
thể chẩn đoán trẻ tự kỷ từ rất sớm, vào khoảng 1,5 tuổi và có thể sớm hơn nữa.
Tính tự kỷ không điền
hình Là rối loạn phát
triển lan tỏa khác với tính tự kỷ bởi tính khởi phát của bệnh hoặc không có đầy
đủ 3 tiêu chuẩn của chẩn đoán. Như vậy sự phát triển bất thường và/hoặc suy
giảm chỉ biểu hiện lần đầu tiên sau 3 tuổi; và/hoặc các nét bất thuờng cần
thiết cho chẩn đoán tính tự kỷ không tìm thấy trong một hay hai của cả 3 lĩnh
vực tâm thần bệnh lý là tác động xã hội qua lại, giao tiếp, và tác phong thu
hẹp, lặp lại. (trang 249) 1
Tính
tự kỷ không điển hình ngoài những khác biệt với Tính tự kỷ ở trên còn có một số
khác biệt nữa là: cũng có đủ cả ba tiêu chuẩn đặc trưng như trong Tính tự kỷ
nhưng mức đô nhẹ hơn-ít trầm trọng hơn như tương tác xã hội tốt hơn, có những
dấu hiệu ngôn ngữ khả quan hơn, tính sáng tạo và khả năng thay đổi hơn, …Nói
chung Tính tự kỷ hay Tự kỷ không điển hình đều nằm trong Phổ tự kỷ (Autism
Spectrum Disorders) nhưng biểu hiện mức độ nặng nhẹ khác nhau.
Theo Michael
Powers(1989), Tính tự kỷ như một sự rối loạn thực thể của não gây ra một rối loạn phát triển suốt đời, bao gồm các rối loạn thực thể, thần kinh và sinh hóa. Thường
được chẩn đoán trong khoảng từ 30 đến 36 tháng tuổi. Triệu chứng bao
gồm những vấn đề về tương tác xã hội, giao tiếp cũng như những ý nghĩ
và hành vi lặp lại. (trang 12)7.
Quan điềm này ngoài những mô tả
các tiêu chuẩn còn cho chúng ta biết tính trầm trọng của bệnh khi nói đến một
“rối loạn phát triển suốt đời”. Chữ “suốt đời” ở đây là khó khăn để khỏi bệnh
cũng như không thể khỏi bệnh. Tác giả khẳng định, nguyên nhân của bệnh tự kỷ là
do rối loạn thức thể não gây ra.
Theo
cuốn “ Để hiểu trẻ tự kỷ “ của tiến sĩ Võ Nguyễn Tinh Vân (2002):
“Chứng tự kỷ thường mang nét lạ lùng, … phát triển không đồng đều
về hành vi và khả năng, trẻ thường hết sức phát triển về một số
lĩnh vực, cho thấy những khả năng ít thấy ở trẻ khác đồng lưá,
nhưng lại yếu kém ở một số khả năng căn bản thuộc về những lĩnh
vực khác, chẳng hạn trẻ có thể đọc sách thông thạo nhưng tỏ ra không
hiểu được lời nói và lời yêu cầu đơn giản”. (Trang 3)8.
Quan
niệm này không nhắc đền các tiêu chuẩn chẩn đoán mà tác giả nói đền sự khác
thường về khả năng theo hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Nghĩa là trẻ tự
kỷ ngoài những khả năng hạn chế còn có những khả năng vượt trội so với trẻ bình
thường cùng tuổi.
Theo
tác giả Kira (2004) trong cuốn “Rối loạn tự kỷ”: Hầu hết trẻ tự kỷ
có nét đặc trưng như : trải qua nhiều thời gian với những hành vi ứng
xử bối rối, xao động mà điều này khiến trẻ tự kỉ khác với những
trẻ bình thường khác. Chúng có thể nhìn chằm chằm vào khoảng không
hàng giờ, ném những đồ vật một cách vô căn cứ trong cơn tức giận.
Biểu lộ việc không thích con người (kể cả bố mẹ), thích những hành
động bất thường một cách vô thức. Trẻ thể hiện như đang sống trong
thế giới riêng của mình. Một vài cá nhân trẻ tự kỷ có năng khiếu
đặc biệt trong một lĩnh vực nào đó như: âm nhạc, toán học.
Tác
giả cho thấy một loạt các hành vi bất thường liên quan đến giao tiếp, tính
cách, sở thích và năng khiếu của trẻ tự kỷ. Qua đó chúng ta nghĩ đến một rối
loạn toàn diện về các mặt thuộc đời sồng tâm thần của trẻ.
Tự kỷ là một sự rối
loạn chức năng của não, xuất hiện sớm trong cuộc sống, nói chung
trước 3 tuổi. Trẻ tự kỷ có vấn đề về hành vi, tưởng tương, giao
tiếp và mối quan hệ xã hội. Chứng tự kỷ kéo dài đến tuổi trưởng
thành. Một số người tự kỷ có khả năng cao có thể hoc xong đại học
và có cuộc sống tự lập. Những người khác chưa bao giờ biết tự phục
vụ bản thân và có thể được chẩn đoán sai là rối loạn tâm thần.
Nguyên nhân không xác định. (http://www.assistivetech.com/info-medicalterms.htm).
Với khái quát về triệu
chứng tự kỷ ở trên cho thấy bệnh này không giống như các bệnh cơ thể khác như:
Viêm phế quản, Viêm dạ dày, nhức đầu, …có thể chữa khỏi trong một khoảng thời
gian nhất định, mà nó có thể kéo dài trong suốt một khoảng thời gian dài từ khi
sinh cho đến trưởng thành, thậm chí suốt cả cuộc đời. Bệnh này rất dễ chẩn đoán
nhầm là bệnh tâm thần.
Theo Hiệp Hội Tâm Thần Quốc Tế: Chứng tự kỷ là một sự rối
loạn phát triển ảnh hưởng đến khả năng giao tiếp của con người, đến hình
thức quan hệ với người khác và đáp ứng phù hợp của con người tới môi
trường. Chứng tự kỷ bắt đầu trong
thời thơ ấu và được cho là một rối loạn suốt đời. Một vài triệu chứng có
liên hệ với chứng tự kỷ có thể thay đổi trong số những cá nhân, nhưng nói
chung, những người tự kỷ có xu hướng suy giảm quan hệ xã hội, giao
tiếp, vận động và cảm giác mà ảnh hưởng đến hành vi của họ. Những người
với những trường hợp nghiêm trọng hơn có thể có chỉ số IQ ở dưới trung bình,
hầu như thiếu những kỹ năng ngôn ngữ, hay có những sự trì hoãn ngôn ngữ. Một
số cá nhân bị tự kỷ có vẻ dường như khép kín với bên ngoài và không nhiệt
tình; những người khác có vẻ bị bó lại trong những hành vi lặp đi lặp lại
và những kiểu mẫu suy nghĩ cứng nhắc. Người tự kỷ có thể biểu lộ những chuyển động thân thể lặp lại
như vỗ, gõ nhẹ ngón tay, đu đưa hay lắc lư. Những cá nhân bị tự kỷ cũng
có thể cho thấy một loạt những hành vi ứng xử bao gồm hiếu động thái
quá, thiếu chú ý, bốc đồng, sự hung tính, và tự gây thương tích. (www.nimh.nih.gov/publicat/autism.).
Tác giả Temple Grandin quan tâm
đến nhận thức cảm tính, đến các rối
loạn chức năng cảm giác, khi cho rằng:
Tính Tự kỷ là một rối loạn phát triển. Một khuyết tật trong những hệ thống đầu vào của quá trình hình thành thông tin
cảm giác gây ra cho đứa trẻ những phản ứng quá mạnh tới một số kích thích nào
đó và phản ứng quá yếu tới những kích thích khác. Trẻ tự kỷ thường co lại vào
thế giới riêng của mình và Tôi là một trong số những người đó, phản ứng lại những kích thích quá nhiều vào giác quan. (Temple Grandin)
(trang 7) 7.
Theo Prachi E Shah, Richard Dalton và Neil W. Boris Tự kỷ là một rối
loạn phát triển thần kinh và chưa biết rõ nguyên nhân gây bệnh, nhưng có một nền tảng di truyền học
chắc chắn. Chứng tự kỷ phát triển và có chẩn đoán rõ ràng trước 36 tháng tuổi. Nó đặc
trưng bởi một kiểu loại hành vi bao gồm sự
suy giảm về chất trong những lĩnh vực phát
triển ngôn ngữ, kỹ năng truyền đạt, tác động quan hệ xã hội qua lại, tưởng tượng
và vui chơi (Trang133)9
Ba tác giả đều đồng ý nguyên nhân của bệnh tự kỷ chưa xác định rõ ràng,
nhưng đồng thời lại khẳng định mạnh mẽ tính sinh học trong phát triển thần kinh
của nó.
Như
vậy, tự kỷ là một dạng rối loạn phát triển thần kinh nhưng chưa biết
rõ nguyên nhân. Mức độ nặng nhẹ của bệnh tự kỷ có thể dao động ở nhiều
mức độ khác nhau từ người có khả năng trí tuệ bình thường đến chậm
phát triển. Chứng tự kỷ biểu hiện sự thiếu quan tâm đến tình cảm của
người khác và có rất ít hoặc
không có quan hệ giao tiếp qua lại với mọi người. Trẻ tự kỷ thường được
mô tả như “thế giới đóng kín” và né
tránh tính cảm, tình yêu. Nhiều trẻ tự kỷ không nói, thích chơi một
mình và tự kích động.
Hội chứng tự kỷ bao gồm nhiều triệu chứng khác nhau, các
triệu chứng này hợp thành những biểu hiện khác nhau ở trẻ tự kỷ.
Từ những quan niệm trên, ta có thể đưa ra khái niệm
về hội chứng tự kỷ như sau: Tự kỷ là hội chứng đa khiếm khuyết, biểu
hiện sự rối loạn phát triển trong hành vi, nhận thức, xúc cảm, sở thích,
ý nghĩ, lời nói, giác quan và quan hệ xã hội; ít nhiều có kèm theo
chậm phát triển trí tuệ. Khi được can thiệp bằng trị liệu tâm lý và giáo
dục hầu hết trẻ tự kỷ đều tiến bô tùy theo mức độ bệnh và cách thức can thiệp
của các nhà chuyên môn.
Tài liệu tham khảo
1. Trần Di Ái, Phân Loại Bệnh Quốc Tế (ICD
10) Vế Các Rối Loạn Tâm Thần Và Hành Vi, Viện sức khoe tâm thần, BV. Tâm thần
Trung ương, HNội, 1992).
2. ICD-10, Bảng Phân loại Bệnh Quốc tế, Sở Y Tế
TP. Hồ Chí Minh, 1998 Chủ biên Bs. Trương Xuân Liễu.
3. Quick reference to the diagnostic criteria
from DSM-IV-TR (TM), Published by American Psychiatric Association,
Washinton,DC, America, 2003).
4.
Fred R. Volkmar, Rhea Paul, Ami Klin,
Donald Cohen, Handbook of Autism and Pervasive Developmental Disorders,
Published by John Wiley & Sons-Inc, America, 2005.
5. Autism Spectrum Disorders – The Complete
Guide to Understanding Autism, Asperger Sydrome, Pervasive Developmental
Disorder, and Other ASDs, Chantal Sicile – Kira, The Berkley Publishing Group A
division of Penguin Group, New York,
USA, 2004.
6.
Lynn M. Hamilton,
Facing Autism, Waterbrook Publishing, America – 2000.
7.
Richard G.J. (1997), The source for autism, LinguiSystems,
U.S.A.
8. Võ
Nguyễn Tinh Vân (2002), Để hiểu chứng tự
kỷ, Nxb Bamboo, Australia.
9.
Nelson, Textbook of
pediatrics, 18th edition, volume 1, Robert M. Kliegman, MD and Richard
E. Behrman, MD, 2007).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét